THÊM MỘT TƯỢNG ĐÀI VINH DANH CHIẾN CÔNG NGƯỜI LÍNH
VNCH Ở TP. WESTMINSTER . TP. WESTMINSTER CHẤP THUẬN DỰ ÁN XÂY DỰNG TƯỢNG ĐÀI
TÁI CHIỂM CỔ THÀNH
Tội ác tày trời của cộng sản trong các "Trại
Tập Trung Cải Tạo"
***
ĂN CƯỚP MÀ GỌI GIẢI PHÓNG
NGUYEN DUONG
Một
bài viết thật xuất sắc. Những em nào sanh ra thời 9x, 2000. Nên đoc kỹ
để hiểu rơ tại sao nhưng người Saigon bỏ nước ra đi, liều mạng sống trên
biển nhưng vẫn ra đi. Coi đi rồi mới hiểu tại sao 46 năm qua ṛi mà mọi
người vẫn không tha thứ đuọc nơi đau mất mát do CS gây ra. Các bạn đừng
so sánh khập khễnh giũa VN và các nuóc khác như Đức chẳng hạn. Họ thống
nhất đát nước đua cả nước thành một nhưng họ chua bao giờ cướp của người
dân vô tội th́ đừng bao gio so sánh VN vơi những nước mà có chién tranh.
Dĩ nhiên thắng làm vua, thua làm giặc. Nhung CS bắc việt chiếm được miền
nam, vơ vét hết tài sản của dân mièn nam, bắt người ta đi tù , đi kinh
té mới và ghép cho cái tội “Tư Bản”. Nếu là bạn, bạn có tha thứ không?
Trả lại hết tài sản đă cướp, trả hết những năm người ta bị tù đày, bị
đánh đập dă man đén bỏ mạng trong tù đi, ṛi những mạng ngươi chết trên
biển đông. Trả lai hết những mất mát đó đi ṛi hoà giải và cùng nhau xây
dựng đất nước nhé.
“Đánh tư sản” ở miền nam sau 1975
I. Đánh tư sản
Đánh tư sản cũng là một sự kiện chấn động lịch sử Việt Nam ngang hàng sự
kiện Thuyền nhân Việt Nam và chỉ xảy ra sau ngày 30 tháng Tư năm 1975.
– Sự kiện Đánh tư sản do Hà Nội thực hiện đối với người dân miền Nam
Việt Nam theo Quyết Định mang số 111/CP vào ngày tháng 4 năm 1977 do
Phạm Hùng kư đặc biệt nhằm vào việc tịch thu nhà cửa đất đai của nhân
dân miền Nam.
Các đợt Đánh tư sản đối với người dân miền Nam được Hà Nội cho kư số X1,
X2 và X3.
– Đợt X1 được bắt đầu vào sáng ngày 9 tháng Chín năm 1975 xảy ra khắp 17
tỉnh thành miền Nam và thành phố Sài G̣n. Đợt này chủ yếu nhắm vào nhà
của các cư dân thành thị, tịch thu nhà và cưỡng bức toàn bộ những nạn
nhân phải đi về vùng Kinh Tế Mới sống.
Đợt X1 này tập trung vào những người tư sản mại bản gốc Hoa vốn đă sanh
sống thành công tại miền Nam ngót nghét hơn 200 năm.
– Đợt X2 được Hà Nội tiến hành từ tháng Ba năm 1978 và được kéo dài cho
đến sau Đổi Mới, tức là khoảng năm 1990 th́ mới chấm dứt.
Đợt này chủ yếu nhắm vào tư thuơng, tiểu tư sản, các thành phần sản xuất
nhỏ vốn rất đa dạng và phồn thịnh trong nền kinh tế tự do do chính phủ
Việt Nam Cộng Ḥa khuyến khích hậu thuẫn.
– Song song với chiến dịch X2 là chiến dịch X3 đặc biệt tập trung tại
Sài G̣n. Đỗ Mười, sau này là Tổng Bí Thư Đảng, lúc bấy giờ thay thế ông
Nguyễn Văn Linh làm trưởng ban cải tạo TW Vào ngày 16 tháng Hai năm 1976
là người chỉ huy trực tiếp đợt thực hiện này.
Bảy giờ sáng ngày 23-3-1978, tất cả các cửa hàng kinh doanh to nhỏ, đủ
mọi ngành nghề, ngóc ngách, đóng cửa, án binh bất động theo lệnh của Ủy
ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Một bản thông báo ngắn gọn do ông Vũ
Đ́nh Liệu thay mặt UBND thành phố kư được ban hành ngay sau đó, xác nhận
“Chiến dịch X3”, bắt đầu ở thành phố mang tên Bác.
Tất cả các cơ sở kinh doanh, buôn bán, nhà hàng, cửa hàng, kho tàng,
trung tâm dịch vụ bị niêm phong. Danh sách đă được lên từ trước. Họ làm
bí mật lâu rồi. Như một trận đánh giặc đă được trinh sát, điều nghiên tỉ
mỉ, chính xác. Các tổ công tác ập vào từng điểm bất ngờ, nhanh chóng
niêm phong tài sản, khống chế mọi người trong gia đ́nh nội bất xuất,
ngoại bất nhập. Mỗi điểm niêm phong có tối thiểu một tổ ba người, không
cùng cơ quan, không quen biết nhau. Họ là thanh niên xung phong, thanh
niên công nhân các nhà máy, sinh viên các trường đại học, cả những thanh
niên các phường được huy động vào chiến dịch.
Ngay buổi chiều hôm ấy một cuộc mít tinh tuần hành từ Nhà văn hóa thanh
niên do Thành đoàn tổ chức. Hàng ngàn học sinh, sinh viên rầm rộ xuống
đường, diễu hành khắp các phố chính Sài g̣n, Chợ Lớn, hoan nghênh chính
sách cải tạo công thương nghiệp của đảng, đả đảo bọn gian thương.
Nền công nghiệp nhẹ, sản xuất đồ tiêu dùng, gia dụng trong nhà của Việt
Nam đă hoàn toàn chính thức bị phá hủy. Không những thế, các nhà máy nhỏ
sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy, … cũng bị tê liệt v́
chủ nhân bị quốc hữu hóa.
Chiến dịch X3 thành phố Hồ Chí Minh, đă đánh gục 28.787 nhà máy, xí
nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, hộ buôn bán.
Ông Nguyễn Văn Linh nói:
– “Khi tôi làm Trưởng ban cải tạo trung ương, t́m hiểu và dự kiến Sài
G̣n, Chợ Lớn có khoảng 6.000 hộ kinh doanh buôn bán lớn. Khi anh Đỗ Mười
thay tôi, anh ấy áp dụng theo quy chuẩn cuộc cải tạo tư sản Hà Nội từ
năm 1955, nên con số mới phồng to lên như vậy. Anh Mười không trao đổi
với chúng tôi. Anh ấy có ‘thượng phương bảo kiếm’ trong tay, toàn quyền
quyết định”. – (Nguyễn Văn Linh – Những trăn trở trước đổi mới).
Ông Đỗ Mười đă đưa hàng ngàn hộ tiểu thương, trung lưu vào diện cải tạo,
gộp luôn những hộ sản xuất vào đối tượng đó.
Riêng tại Sài G̣n, th́ báo Tuổi Trẻ đă phải thừa nhận là đă có trên
10000 tiệm bán hàng bị đóng chỉ qua một đêm, khiến một viên thuốc trụ
sinh cũng không có mà mua, mà dùng.
Trong chiến dịch X-3, Đỗ Mười không sử dụng người của Nguyễn Văn Linh,
mà đưa hầu hết cán bộ từ miền Bắc vào nắm giữ những vị trí quan trọng.
Đồng thời ông bố trí cán bộ các ngành thương nghiệp, giao thông vận tải,
công nghiệp nhẹ, kho hàng vào tiếp quản. Ông đóng đại bản doanh ở Thủ
Đức, trực tiếp chỉ đạo, không tham khảo bất cứ ư kiến ai trong cơ quan
lănh đạo thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả X3, với “công lao to lớn” của Đỗ Mười, thu được khoảng hơn 4.000
kg vàng, gần 1.200.000 đô la, và một khối lượng hàng hóa không thống kê
hết. Từ chiếc xe hơi, tivi, tủ lạnh, đến bịch bột giặt, quả trứng gà đều
bị kê khai và tịch thu chất trong các kho, để rồi không cánh mà bay,
hoặc biến thành phế thải.
– Sau chiến dịch X3, hàng ngàn gia đ́nh cán bộ miền Bắc đă vào Sài g̣n
sinh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu. Theo thừa nhận ngắn ngủi từ
báo SGGP và báo Công An khi bàn đến vấn đề trả lại nhà cho những “đối
tượng” bị đánh tư sản oan ức vào tháng 9 năm 1989, ước tính lên đến
khoảng 150 ngàn người thuộc gia đ́nh cán bộ gốc miền Bắc vào Sài G̣n
sinh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu.
Trong chiến dịch này, số lượng người Sài G̣n phải bị mất hết tài sản và
bị cưỡng bức đi Kinh tế mới là khoảng 600.000 người, tạo ra một sự hoảng
sợ hoang mang chưa từng có trong lịch sử phát triển Sài G̣n qua các
triều đại.
Cuối đợt X3, ghi nhận của Hà Nội là có khoảng 950.000 người Sài G̣n bị
cưỡng bức đi Kinh tế mới, không hoàn thành chỉ tiêu đề ra là một triệu
hai người!
– Sức mạnh kinh tế Sài G̣n tự nhiên bị phá hoại đi đến kiệt quệ hoàn
toàn sau chiến dịch X3 do Đổ Mười trực tiếp chỉ huy.
Hơn 14.000 cơ sở tiểu thủ công nghiệp tại Sài G̣n rất cần cho nền kinh
tế quốc dân, với khoảng 270 ngàn nhân công hoàn toàn bị trắng tay, đóng
cửa với tổng số thiệt hại tài sản trước mắt lên đến gần chín đến hai
mươi mốt tỷ Mỹ kim và tiến tŕnh phát triển công nghệ của đất nước trong
tự cường hoàn toàn không c̣n hy vọng để phục hồi.
– Riêng về tổng số vàng, nữ trang tịch thu từ tư bản ở miền Nam được các
báo đài của Đảng thừa nhận lên đến 4000 lượng vàng – nhưng đây chỉ là
con số tượng trưng tính riêng ở Sài G̣n từ tháng Năm năm 1977 qua tháng
Hai năm 1978 mà thôi. Cả thảy trên dưới gần 35 ngàn lượng vàng, tính
luôn cả nữ trang và kim cương thu trong những đợt Đánh tư sản ở miền
Nam.
Ii. Hợp tác hóa
– Riêng về chỉ thị 43 của Bộ Chính Trị vào tháng 5 năm 1978 đă quốc hữu
hóa toàn bộ đất đai của nông dân miền Nam vào tay nhà nước thông qua
h́nh thức “Tập Đoàn Sản Xuất”.
Việc hợp tác hóa ở miền Nam được tiến hành khẩn trương trong các năm từ
1977 đến 1980. Theo kế hoạch th́ ruộng đất được tập hợp lại để tổ chức
canh tác tập thể, sản phẩm được phân chia căn cứ theo mức đóng góp. Máy
móc nông nghiệp của nông dân bị trưng mua để thành lập các tập đoàn phục
vụ sản xuất nông nghiệp. Các tập đoàn sản xuất có nghĩa vụ bán sản phẩm
của ḿnh cho Nhà nước theo giá kế hoạch thấp hơn rất nhiều giá thị
trường. Bù lại, Nhà nước cung cấp vật tư và hàng hóa tiêu dùng cho các
tập đoàn.
Tuy nhiên t́nh h́nh kinh tế Miền Nam không thích hợp với mô h́nh hợp tác
hóa v́ chương tŕnh “Người cày có ruộng” vào đầu thập niên 1970 đă phân
phối ruộng đất khiến đa số nông dân Miền Nam thuộc hạng trung nông với
năng suất khá cao. Hơn nữa chính quyền cũng đă nhận thấy lịch sử hợp tác
hóa ở miền Bắc đă gặp nhiều thất bại nên hợp tác hóa ở miền Nam cũng bị
bỏ dở.
Tính đến cuối năm 1979, ở Miền Nam thành lập được 1.286 hợp tác xă và
hơn 15.000 tổ sản xuất bao gồm khoảng 50% nông dân. Vậy mà sang năm 1980
các tổ chức này đă tan ră, chỉ có trên giấy tờ mà không hoạt động được
như kế hoạch. Hậu quả là sản xuất nông nghiệp khựng lại trong khi dân số
tăng, gây ra cảnh thiếu thực phẩm khiến từ năm 1976 đến 1980 mặc dù
trong hoàn cảnh ḥa b́nh Việt Nam phải nhập cảng 5,6 triệu tấn thực
phẩm.
Sang đến năm 1979, nhà nước áp giá pháp lệnh 5,2 hào một kg lúa trong
khi thị trường là 1,5 đồng một kg nên nông dân không chịu bán. Bí thư Vơ
Văn Kiệt khi ấy chỉ đạo Công ty Lương thực thu mua lúa của dân theo giá
tương xứng, cứu đói cho thành phố và để cứu văn t́nh thế bất măn không
c̣n dằn được nữa từ nông dân miền Nam trước những đợt thu lúa từ năm
1977 trở đi.
III. KINH TẾ MỚI
Tất cả những ai tại Sài G̣n bị tịch thu nhà, tài sản đều phải đi về vùng
Kinh tế mới, là những nơi mà cơ sở hạ tầng cho sinh hoạt chưa được xây
dựng, trong đó có cả điện nước, trường học và bệnh xá. Hơn 600.000 nạn
nhân bị cưỡng bức qua đêm phải rời Sài G̣n để về những vùng Kinh tế mới
và bỏ lại hết toàn bộ tài sản của ḿnh từ nhà ở, của cải, đồ đạc cho
Đảng quản lư.
Khi đến vùng Kinh tế mới để sống, họ phải tham gia vào các tập đoàn sản
xuất hay c̣n gọi tắt là Hợp Tác Xă, “thành quả lao động” của các nạn
nhân này được phân phối chia ra như sau:
– 30% trả thuế
– 25% góp cho chính phủ theo giá thu mua của nhà nước;
– 15% trả lương cho cán bộ quản lư ;
– 30% c̣n lại chia cho các thành viên tính theo số điểm thuế lao động
Như vậy là sản phẩm nông nghiệp từ các nông trường vùng Kinh tế mới đă
bị tịch thu hết 70 % và chỉ c̣n 30% là chia lại cho các thành viên, vốn
là các nạn nhân bị tịch thu nhà cửa sống trong vùng Kinh Tế Mới, thế là
gần cả triệu người dân Sài G̣n đột nhiên lâm vào cảnh đói kém trầm trọng
như là đ̣n trả thù hữu hiệu của chế độ Hà Nội đối với những bị liệt vào
thành phần không phải “Cách Mạng”, ngụy quân ngụy quyền và tiểu tư sản.
Phát biểu tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội chung cả nước, ngày 25 tháng 6
năm 1976 ông Lê Duẩn chủ trương:
“ … ở miền Nam, những người trước đây nhờ chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ mà có một mức sống vật chất vượt xa khả năng của nền kinh tế
trong nước và kết quả lao động của bản thân họ, nên hiểu rằng đó là một
cuộc sống phồn vinh giả tạo, đổi bằng đau khổ, chết chóc của hàng triệu
đồng bào, bằng sự triệt phá biết bao xóm làng, thị trấn, bằng sự sa đọa
của biết bao thanh niên, bằng sự chà đạp nhân phẩm của biết bao phụ nữ ở
các vùng tạm bị chiếm, và bằng nhục mất nước.
Họ nên hiểu rằng lối sống chạy theo những nhu cầu giả tạo theo kiểu “xă
hội tiêu thụ”, đua đ̣i theo những thị hiếu tầm thường, hoàn toàn trái
với cuộc sống hạnh phúc văn minh chân chính. Những đồng bào ấy ngày nay
có thể và cần trở lại với thực tế, trở về với cuộc sống của dân tộc,
sống bằng kết quả lao động của ḿnh. Đó là con đường để tiến tới một
cuộc đời tươi vui, đẹp đẽ, có ư nghĩa, có phẩm giá, có hạnh phúc thật sự
và lâu bền cho chính ḿnh và con cháu ḿnh.”
Ước tính có khoảng 300 ngàn trẻ em bị thất học v́ sống ở các vùng Kinh
Tế Mới này. Nhân dân miền Nam cả triệu người đang sống sung túc bổng lao
vào chịu đói kém khổ sở chưa từng có. Nạn đói kém lan tràn khắp mọi nơi,
mọi nhà.
Hàng vạn người dân Sài G̣n đă phải bỏ trốn khỏi các vùng Kinh Tế Mới, đi
ăn xin trên đường trở về Sài G̣n, đói rách khổ sở. Đây là thời kỳ khốn
khổ bi đát nhất trong lịch sử phát triển Sài G̣n.
IV. Quyết Định 111/CP của Hà Nội về việc “Đánh tư sản” ở miền Nam Việt
Nam
Quyết định 111/CP của Hà Nội là một tài liệu chứng quan trọng. Quyết
định này là nguồn gốc của mọi khổ đau, nghèo khó của người dân miền Nam
Việt Nam sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 và là lư do Việt Nam bị tụt hậu
về mọi mặt, đứng hàng thứ ba nghèo nhất thế giới theo tuyên bố của Liên
Hiệp Quốc vào năm 1985.
Trích:
“Điều IV. ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT CỦA CÁC TỔ CHỨC VÀ CÁ NHÂN THUỘC BỘ MÁY CAI
TRỊ CỦA NGUỴ QUÂN NGUỴ QUYỀN VÀ ĐẢNG PHÁI PHẢN ĐỘNG
1. Mọi loại nhà cửa, đất đai trước ngày Giải phóng do chính quyền Mỹ
nguỵ quản lư hoặc dành cho những tổ chức hay cá nhân, thuộc nguỵ quân
nguỵ quyền và các tổ chức đảng phái phản động sử dụng, nay đều là tài
sản công cộng, do Nhà nước trực tiếp quản lư.
2. Nhà cửa, đất đai của những người sau đây đều do Nhà nước trực tiếp
quản lư:
– Sĩ quan nguỵ quân cấp từ thiếu tá trở lên.
– Sĩ quan cảnh sát từ cấp trung uư trở lên.
– Cán bộ thuộc bộ máy cai trị của nguỵ quyền đă giữ chức vụ, từ Chủ sự
pḥng cơ quan Trung ương, Ty phó, Quận phó trở lên.
– Các phần tử ác ôn, mật vụ, t́nh báo, chiêu hồi cố t́nh phản cách
mạng.”
Điều IV của QĐ 111/CP đă cho thấy rơ nhiều gia đ́nh, thân nhân của người
trong quân đội, chính quyền VNCH phải chịu mất nhà mất cửa rất thê thảm.
Mọi quy chụp là phản động hay Ngụy quyền th́ coi như là bị tịch thu nhà
cửa.
Bởi không có định nghĩa rơ ràng thế nào là thành phần ác ôn nên các viên
chức cán bộ Cộng Sản tha hồ kết tội thuờng dân vô tôi vạ là thành phần
ác ôn của “Ngụy quyền” để tư lợi cướp bóc nhà cửa cho riêng ḿnh, không
cần ṭa án nào xét xử cả. Ai ai cũng có thể là điệp viên CIA, hay là có
lư lịch ba đời liên quan đến Ngụy quân, và đều có tư tưởng phản động và
cần phải tịch thu nhà cửa dựa trên điều khoản này của QĐ 111/CP.
Không khí hoảng sợ , đau thuơng oán hận lan tràn khắp cả miền Nam.
V. Đổi tiền.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam thống nhất lănh thổ và tiếp sau
đó là thống nhất về chế độ chính trị. Tuy nhiên, nền kinh tế quốc gia
vẫn c̣n bị chia cắt trên một số lĩnh vực. Một trong số đó là việc tồn
tại đồng thời 2 đơn vị tiền tệ: Đồng (tiền Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa) và
Đồng (tiền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam).
Việc chấp nhận 2 đơn vị tiền tệ cùng tồn tại thời gian đầu được Đảng
Cộng sản Việt Nam giải thích là “tuy là một nước thống nhất, nhưng do
c̣n có sự khác biệt về phương thức sản xuất và phân phối, chúng ta phải
tạm thời cho lưu hành hai đồng tiền khác nhau ở hai miền.”
Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn xem điều này là “trở ngại trong
giao lưu kinh tế và thanh toán giữa hai miền”. Mặt khác, quốc hiệu của
Việt Nam đă được đổi thành Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam, không
dùng quốc hiệu cũ vẫn ghi trên các đơn vị tiền tệ đang lưu thông. Do đó,
Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đă có chủ trương thống nhất tiền tệ.
Ngày 01 tháng 4 năm 1978, Bộ Chính trị ra nghị quyết số 08-NQ/TW về việc
phát hành tiền ngân hàng mới, thu hồi tiền ngân hàng cũ ở hai miền,
thống nhất tiền tệ trong cả nước. Việc thống nhất tiền tệ vừa bao gồm
mục đích tạo thuận lợi cho trao đổi và thanh toán, vừa bao gồm mục đích
kiểm soát lượng tiền trong lưu thông, lại vừa bao gồm mục đích cải tạo
xă hội chủ nghĩa.
Ngày 05 tháng 5 năm 1978, công việc đổi tiền được tiến hành trên toàn
quốc. 1 đồng (tiền Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa) đổi bằng 1 đồng mới, 0,80
đồng (tiền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam) đổi bằng 1
đồng mới.
Mức tiền mặt được đổi ngay được ấn định như sau:
– Mỗi hộ độc thân được đổi ngay đến mức tối đa ở thành thị là 100 đồng,
ở nông thôn là 50 đồng;
– Mỗi hộ gia đ́nh có 2 nhân khẩu được đổi ngay ở thành thị mức tối đa là
200 đồng, ở nông thôn là 100 đồng;
– Mỗi hộ gia đ́nh có 3 nhân khẩu trở lên được đổi thêm cho mỗi nhân khẩu
ở thành thị là 50 đồng, ở nông thôn là 30 đồng, những hộ nhiều nhân khẩu
nhất cũng chỉ được đổi ngay đến mức tối đa ở thành thị là 500 đồng, ở
nông thôn là 300 đồng;
– Mỗi nhân khẩu trong các hộ tập thể, như bộ đội, công an vũ trang, công
nhân viên chức, sinh viên… được đổi ngay đến mức tối đa là 100 đồng.
– Số tiền sở hữu trên mức tối đa phải khai báo và kư thác vào ngân hàng.
Khi cần dùng th́ tiền đó có thể rút ra nếu có lư do chính đáng.
Một điều kiện nữa là người dân phải chứng minh rằng số tiền trên mức tối
đa là tiền kiếm được bằng “lao động cá nhân” chân chính chứ không phải
tiền trục lợi qua lao động của người khác. (!)
VI. Hậu quả quá tŕnh Đánh tư sản của Hà Nội:
– Theo các chuyên gia của Liên Hiệp Quốc về kinh tế, Việt Nam tụt hậu
hơn 50 năm về kinh tế v́ các chính sách đánh tư sản này của Cộng Sản Hà
Nội lên đầu người dân miền Nam. Việt Nam là quốc gia nghèo đứng hàng thứ
ba trên thế giới vào năm 1985.
– Kinh tế của Việt Nam măi đến năm 1997 mới thực sự khắc phục được một
phần hậu quả của 10 năm Quá Độ, Đánh tư sản do Hà Nội tiến hành từ năm
1976 đến năm 1987.
– Từ năm 1987 đến năm 1997, Hoa Kỳ đă nhắm mắt làm ngơ cho những người
Việt di tản hay Vượt Biên định cư tại Mỹ gởi tiền hàng ồ ạt về cứu đói
thân nhân ḿnh và vực dậy sự sinh động về kinh tế vốn có ngày nào của
miền Nam.Tổng số ngoại tệ gởi về lên đến 8 đến 15 tỷ Mỹ kim mỗi năm
trong suốt 10 năm đó.
– Sang đến năm 1989, chính quyền bắt đầu tiến hành trả lại nhà cho một
số nạn nhân bao năm trời khổ ải, cũng như bắt đầu bàn tới vấn đề cho
phép các sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Ḥa được bán nhà vốn hầu hết đă
bị tịch thu nếu ra đi theo chương tŕnh HO-Special Release Reeducation
Center Detainee Resettlement Program (Chương tŕnh tái định cư phóng
thích đặc biệt tù nhân trung tâm cải tạo)
– Chỉ số nghèo đói của Việt Nam đứng hàng thứ ba trên thế giới và chỉ
mới có những tiến bộ cải thiện khi World Bank và USAID tăng tốc trợ
giúp, mọi tài liệu, h́nh ảnh ca ngợi đánh tư sản từ các báo chí đài phát
thanh của Đảng cũng bị dẹp dần đi.
Hà Nội tới ngày nay vẫn chưa chính thức xin lỗi hai mươi mốt triệu người
dân miền Nam về hành động này.