Mỹ và CS Hà Nội thỏa thuận kư Hiệp Định Paris ngày 26.9.1972. Nhưng nhờ
tịch thu được tài liệu mật của VC tại tỉnh Quảng Tín, TT Nguyễn Văn
Thiệu đă buộc Mỹ và CS phải kư ngày 27.1.1973.
LGT (Gươm Thiêng):
Đại Tá Hoàng Ngọc Lung sinh năm 1932 tại Bắc Việt. Sau khi đậu tú tài
năm 1951, ông bước vào đời quân ngũ và tốt nghiệp Khóa 1 Sĩ Quan Trừ Bị
Nam Định với cấp bậc Thiếu Úy. Năm 1954, ông được thăng Đại Úy, Tiểu
đoàn trưởng và Tham mưu trưởng Trung Đoàn. Vô Nam, ông giữ chức Chỉ huy
phó Trường T́nh Báo Cây Mai, nơi đào tạo các sĩ quan, hạ sĩ quan của 3
ngành Quân Báo, An Ninh Quân Đội, và Chiến Tranh Tâm Lư. Năm 1961, ông
tự học và tốt nghiệp cử nhân Luật Khoa. Năm 1963, ông là Sĩ quan liên
lạc tại Fort Bragg, North Carolina, Hoa Kỳ. Năm 1969, ông là nhân viên
quân sự đầu tiên của bộ TTM trong phái đoàn VNCH tham dự Hội Nghị Ba Lê.
Từ năm 1972 đến cuối tháng 4 năm 1975, ông giữ chức Trưởng Pḥng 2/TTM.
Tới Hoa Kỳ từ năm 1975, ông được mời viết sách cho pḥng Quân Sử của Bộ
Quốc Pḥng Hoa Kỳ. Ngoài ra, ông tiếp tục theo học và tốt nghiệp
Computer Science năm 1976 và là chuyên viên Computer Analyst trong suốt
thời gian 21 năm tại Hoa Kỳ. Ông được ân thưởng nhiều huy chương của
chính phủ VNCH và Hoa Kỳ, bao gồm cả Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương,
Bronze Star, các huy chương đặc biệt của Hoàng Gia Thái Lan, chính phủ
Nam Hàn, Trung Hoa Dân Quốc... Nhận được thư của ông Huỳnh Bá Phụng, cựu
sĩ quan Pḥng 2/TTM, báo tin Tổng Hội CQN/QL/VNCH Úc châu sắp xuất bản
Đặc San Gươm Thiêng, Đại Tá Hoàng Ngọc Lung, tuy đă 80 tuổi, sức yếu,
nhưng ông cũng đă cố gắng viết bài tŕnh bầy về một bí mật trọng đại của
cuộc chiến tranh VN: Mỹ và Cộng sản Hà Nội đă thỏa thuận kư Hiệp Định
Paris vào ngày 26.9.1972. May mắn, nhờ có tài liệu tịch thu được của VC
tại tỉnh Quảng Tín, TT Nguyễn Văn Thiệu đă phản đối quyết liệt, buộc Mỹ
và CS phải rời ngày kư Hiệp Định tới 4 tháng sau, 27.1.1973. Thời
gian 4 tháng tuy không dài, nhưng chắc chắn thời gian đó cũng đủ để có
những ảnh hưởng nhất định đến cuộc chiến, làm chậm bước tiến của quân
xâm lăng CS, cứu được nhiều sinh mạng, và thảm kịch CS chiếm trọn Miền
Nam đă không thể xảy ra trước ngày 30-4-1975. Đặc San Gươm Thiêng chân
thành cảm ơn sự đóng góp quư báu của ông Hoàng Ngọc Lung, và sau đây
trân trọng giới thiệu cùng quư độc giả nguyên văn bài viết của ông.
* * *
Tại bàn tṛn Hội Nghị Ba Lê: Phái đoàn VNCH (trái); Phái đoàn của VC (phải);
Phái đoàn Mỹ (trước); và đối diện là CS Bắc Việt.
Diễn biến lịch sử về t́nh h́nh chiến cuộc ở VN trước đây đă là đề tài
của biết bao sử gia viết phân tách hoặc b́nh luận. Cộng thêm việc giải
mật của các tài liệu Hoa Kỳ, những sự tiết lộ qua các cuộc phỏng vấn hay
tự thuật của nhiều giới chức thẩm quyền liên đới, đă phô bày khá rơ rệt
và đầy đủ.
Kỷ niệm năm thứ 20 của Đặc San Gươm Thiêng, tiếng nói của Tổng Hội CQN/QLVNCH
Úc Châu, Ban Chủ Biên đă yêu cầu tôi viết một bài về chiến tranh VN. Tôi
rất phân vân không biết phải viết ǵ. Tôi không phải là nhà văn, một kư
giả, cũng không phải là người viết trên bất kỳ diễn đàn nào, ngoại trừ
đă viết mấy cuốn Quân Sử theo nhu cầu của Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ vào những
ngày đầu tôi tới Hoa Kỳ năm 1975. Các tài liệu này hiện được lưu trữ tại
Library of Congress của Mỹ. V́ vậy, trong khuôn khổ giới hạn của tờ Đặc
San Gươm Thiêng, tôi xin đóng góp sơ sài về một vài sự việc tương đối
đáng để ư trong sự bức tử làm sụp đổ chế độ VNCH chúng ta.
Trong 24 năm phục vụ trong quân ngũ, t́nh h́nh chiến sự đă ám ảnh tôi
rất nhiều từ khi bắt đầu giă từ học đường, đi động viên vào khóa 1 Nam
Định năm 1951. Lúc đó tôi mới 19 tuổi dù rằng lệnh động viên chỉ áp dụng
cho lứa tuổi 20 tới 28 mà thôi. Tôi bị gọi nhầm nhưng vẫn tuân theo mệnh
lệnh quân ngũ và ra trường với cấp bậc Thiếu Úy. Đầu tiên ở trong quân
ngũ tôi đă phục vụ ở các đơn vị tác chiến tại các khu vực Bùi Chu, Hưng
Yên, các đơn vị hoàn toàn do các sĩ quan VN tự trị đảm nhiệm, và chiến
dịch cuối cùng mà trung đoàn của tôi tham gia là chiến dịch Đinh Tiên
Hoàng vùng Thất Sơn Rạch Giá, sau đó tôi trở về Sài G̣n làm công việc
tham mưu.
Trong địa hạt tham mưu, thời cuộc đă đưa tôi vào địa hạt Quân Báo. Tin
tức chính xác, trung thực nhất là thâu lượm, tịch thu được các tài liệu
của CS, cộng thêm các nguồn gốc tin tức khác để phối kiểm. Ngay như tin
tức kỹ thuật điện đàm, kiểm thính cũng có thể tạo ra tin tức giả mạo
đánh lừa. Tôi lấy thí dụ, trường hợp sư đoàn 320 của CS trú đóng ở nam
Pleiku, nhưng khi di chuyển xuống Ban Mê Thuột chúng đă muốn đánh lừa
quân ta nên vẫn để lại bộ phận điện đài tại chỗ, và không di chuyển theo
sư đoàn. Điều này đă tạo ra sự ngộ nhận của giới chức QĐ 2 của ta đă lầm
tưởng mục tiêu của địch là Pleiku chứ không phải BMT như pḥng 2 quân
đoàn đă ước tính.
Với các tin tức tài liệu tịch thu được của địch, đă khiến tôi phải suy
nghĩ lại câu châm ngôn vẫn được truyền tụng từ trước của Tôn Tử:
“Biết Ḿnh Biết Địch, Trăm Trận Trăm Thắng.” Trong chiến tranh VN
lời nói này không c̣n là bất hủ v́ chúng ta không những phải biết địch,
biết ḿnh, mà c̣n phải biết được người bạn đồng minh Hoa Kỳ của ḿnh. Sự
thay đổi đường lối chiến lược của Hoa Kỳ chính yếu là đặt quyền lợi của
Hoa Kỳ trên hết nên Hoa Kỳ đă t́m cách rút ra khỏi VN bằng cách kư kết
giảng ḥa với CS qua hiệp định Ba Lê.
Tài liệu học tập của chính uỷ CS ở tỉnh Quảng Tín bị quân ta tịch thu
ngày 10 tháng 10 năm 1972 đă nêu lên nội dung mới là thông báo phải học
tập văn kiện hiệp định Ba Lê để CS chuẩn bị hành động.
Tài liệu này phù hợp với t́nh báo ở Tây Ninh cho biết CS đă mở khóa học
đặc biệt để hướng dẫn thảo luận hiệp định này tại bộ chỉ huy Trung Ương
Cục Miền Nam, ngày ngưng bắn sẽ là ngày 26-9-1972. Phương án của địch là
chiếm đất giành dân, cắm cờ và xách động dân chúng xuống đường, cướp phá
các cơ sở quân sự, nhằm cướp chính quyền VNCH.
Ngày 17.10.1972, Tổng thống Thiệu ra lệnh bộ Tổng Tham Mưu hỏa tốc mang
tài liệu này về Sàig̣n để làm bằng chứng xác thực và cụ thể nhứt để Tổng
Thống nói chuyện với Kissinger về việc Việt Nam phải kư kết chung với
Hoa Kỳ vào hiệp định Ba Lê. V́ vậy cũng đă tŕ hoăn được thời gian kư
kết để chuẩn bị.
Thời đó, các cuộc mật đàm giữa Hoa Kỳ và Cộng Sản, Hoa Kỳ không hề thông
báo cho VNCH biết trước các chi tiết nội dung và ngày kư hiệp định. Tổng
thống Thiệu rất tức giận về bí mật thỏa hiệp song phương giữa Mỹ và CS,
v́ về phía CS, ngay ở cấp Xă ủy cũng đă biết các chi tiết về nội dung
thỏa hiệp, trong khi đó ngay cấp lănh đạo Quốc Gia VNCH không được biết
ǵ về việc này.
Lệnh từ Phủ Tổng Thống đ̣i phải đệ tŕnh tài liệu đó tới Tổng Thống
trong thời gian sớm nhứt, và không được trễ hơn sáng hôm sau, trước khi
ông gặp Kissinger. Tài liệu này phải được hoàn toàn bảo mật không được
cho Hoa Kỳ biết.
Để thi hành chỉ thị này, Bộ TTM đă ra lệnh cho bộ tư lệnh KQVN điều động
phi cơ L19 để di chuyển tài liệu từ Quảng Tín về Huế; đồng thời xử dụng
2 phản lực cơ chiến đấu A37 từ Cần Thơ về Sàig̣n, đón 1 sĩ quan cấp tá
thuộc Trung Tâm khai thác Tài Liệu Bộ TTM, ra Huế nhận lănh tài liệu, để
Trung Tâm Khai Thác làm phiếu phúc tŕnh chuyển đến văn pḥng Tổng Thống
trước hạn định.
Nhờ vậy, Tổng Thống Thiệu đă trao cho Kissinger tài liệu này. Và kết quả
chung cuộc là ngày kư hiệp định Geneve đă được tŕ hoăn, tại Paris ngày
27 tháng 1 năm 1973, 4 tháng chậm hơn ngày 26 tháng 9 năm 1972 mà Mỹ và
CS đă thỏa thuận.
Ngày 1.3.1973, đại diện 12 quốc gia và LHQ họp tại Paris kư kết Chương
tŕnh 9 điểm, đ̣i 4 bên (Mỹ, VNCH, CS Bắc Việt & VC Miền Nam) đă kư kết
Hiệp Định Ba Lê ngày 27.1.1973 phải tôn trọng thực hiện. Nhưng khi VC vi
phạm Hiệp Định, xua quân xâm lăng VNCH, tất cả các quốc gia và LHQ đều
im lặng.
Hậu quả của việc kư kết Hiệp Định Paris cho phép CS vẫn được duy tŕ các
đơn vị quân sự tại chỗ ở miền Nam không phải rút lui ra Bắc, mặt khác đă
đưa đến sự rút lui của các đơn vị Hoa Kỳ và các đơn vị Đồng minh tham
chiến ở miền Nam. Đáng kể hơn nữa là sự chi viện của Hoa Kỳ đă giảm
thiểu tối đa sau khi Tổng Thống Nixon phải thoái vị về vụ Watergate.
Tổng thống Ford người kế nhiệm chỉ đề nghị một ngân sách chi viện là
$522 triệu Mỹ Kim cho cả 2 nước VN và Kampuchia. Phần VN là $300 triệu.
Quốc hội Hoa Kỳ c̣n cử một phái đoàn lưỡng viện sang VN vào cuối tháng
2-1973 để nhận xét và báo cáo sự thiết yếu của ngân khoản này. Phái đoàn
này đă được VN cung cấp thật đầy đủ các dự kiện thiết yếu, được phép
tiếp xúc với các đơn vị của VN tại chỗ ở các Quân khu, để thấy sự thiếu
hụt chính xác về quân cơ, quân dụng và đạn dược của VNCH.
Một cuộc triển lăm tại bộ Tổng Tham Mưu, về những vũ khí của VC do quân
đội VNCH tịch thu được.
Bộ TTM của VNCH cũng đă tổ chức 1 cuộc triển lăm tŕnh bày các vũ khí
tối tân đủ loại của CS đă xử dụng và bị tịch thu như các đại pháo, chiến
xa, vũ khí pḥng không, các loại hỏa tiễn, súng ống đủ loại, không thiếu
một thứ ǵ kể cả dụng cụ ống ḍm Hải quân, ḿn v.v.
Tất cả những nổ lực kể trên cũng không giúp ích ǵ cho sự gia tăng ngân
khoản viện trợ. Trong khi CS miền Bắc được Nga Sô, Trung Cộng trợ giúp
rất nhiều các loại vũ khí pḥng không như hỏa tiển Sam E2 của Nga, các
loại xe tăng thiết giáp... Sự gia tăng nhiều đến nỗi không c̣n kho chứa
hàng để ẩn giấu mà để công khai lộ thiên mọi chổ mọi nơi. Sự vận chuyển
xe cộ được xử dụng theo hệ thống dẫn dầu vào miền Nam trên đường xâm
nhập đă thu ngắn thời gian từ ngoài Bắc vào Nam từ 4 tháng xuống c̣n 2
tuần.
Cuộc tổng tấn công của CS vào Ban Mê Thuột ngày 10 tháng 3, 1973 mở đầu
cho cuộc xâm lược của CS sau khi kư hiệp định Ba Lê đă được phát giác từ
khi chúng c̣n chuẩn bị trong mấy tháng đầu năm 1973 khiến cựu Đại Tướng
Cao Văn Viên khi ra thuyết tŕnh tại hội đồng An Ninh Quốc Gia đă tŕnh
bày là sự tấn công này đă được biết từ trước, nhưng vấn đề tương quan
lực lượng, đă không cho phép chúng ta làm ǵ khác hơn.
Tóm lại t́nh h́nh biến chuyển của thời cuộc chiến tranh ở VN đă được
thời gian hậu chiến phô bầy rất nhiều bí ẩn trong chiến tranh VN. Một
chi tiết chưa được ai bộc lộ trước đây là Chính phủ Dương Văn Minh ngay
khi lên cầm quyền đă âm mưu quyết định bắt giữ 5 sĩ quan cao cấp của Bộ
TTM đứng đầu là cựu Đại Tướng Cao Văn Viên. Danh tánh của 4 người c̣n
lại tôi không cần nêu ra v́ tôi thiết nghĩ ai cũng có thể suy đoán đó là
những người nào mà không sợ sai lầm.