VIỆT NAM
ĐAI HỌA DIỆT VONG CẬN KỀ,
QUA SỰ
KHỦNG BỐ CỦA TRUNG CỘNG, TỪ CÁC ĐẬP THỦY ĐIỆN
MƯỜNG
GIANG
Năm 2006, Cao Guangjing, phó giám đốc quản lư công tŕnh
thủy điện của Hoa Lục, đă tuyên bố với báo chí trong và ngoài nước, rằng
Trung Cộng sắp hoàn thành Đập Thủy Điện Tam Hiệp, lớn nhất thế giới,
trên sông Dương Tử và hănh diện xác nhận : Đây là một kỳ quan cũng như
biểu tượng kinh tế của Tàu, trong thế kỷ XXI.
Có điều lạ trong lần khoe tốt này, ngay chính đương sự cũng
không dám khẳng định, công dụng của đập thủy điện trên tốt xấu thế nào,
mà chỉ nói bâng quơ rằng phải chờ tới những ba chục năm sau, hay đúng
hơn phải coi nó có thể ngăn chống được sự tàn phá hằng năm của lũ lụt
thường trực trên sông Dương Tử, lúc đó mới có thể kết luận.
Câu chuyện làm cho người ta nhớ lại Vạn Lư Trường Thành, xưa
nay ai cũng nói do Tần Thủy Hoàng xây dựng trước Thiên Chúa giáng sinh,
từ lâu được đanh giá là một công tŕnh kiến trúc vĩ đại, chẳng những của
nước Tàu, mà c̣n là của nhân loại. Tuy nhiên huyền thoại này, vào năm
1969 đă bị đánh đổ, bởi Arthur Waldron , giáo sư khảo cổ tại Trung tâm
nghiên cứu về Đông Á, thuộc Trường Đại học Harvard (Hoa Kỳ).
Trong tác phẩm ‘ The great wall of China ‘ , tŕnh bày những
nghiên cứu lịch sử và khảo cổ tại chổ sau nhiều năm đi khắp nước Tàu,
cuối cùng tác giả đă khẳng định rằng Vạn Lư Trường Thành, đă tồn tại
suốt bao chục thế kỷ qua, thực chất chỉ là huyền thoại. Theo ông, từ năm
700 trước Tây lịch tới nay, khắp nước Tàu đă có rất nhiều thành lũy được
xây dựng răi rác mọi nơi, mọi thời. Nên câu chuyện bức tường thành được
kiến trúc duy nhất thời nhà Tần, là không đúng sự thật. Để chứng
minh,tác giả dựa vào lịch sử Trung Hoa, từ thời nhà Hán cho tới thế kỷ
thứ XIII, khi Nhà Nam Tống bị quân Mông Cổ xâm lăng và tiêu diệt, cho
thấy Tàu lúc đó không hề có một bức tường thành nào cả, nên đă không thể
ngăn cản được vó ngựa trường chinh của Thành Các Tư Hản ở phương Bắc.
Ngoài ra ông c̣n dựa vào các tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Hoa
qua bao thời dại, xác nhận các văn nhân lúc đó, chẳng hề xử dụng tới
danh từ nào đồng nghĩa với ‘ The great wall’, mà Tây phương chỉ mới dùng
sau này.
Ngay đến tài liệu pḥng thủ của nhà Minh (1368-1644), cũng
không hề nhắc tới Vạn Lư Trường Thành. Măi đến nửa thế kỷ thứ XVI, trước
nguy cơ đe dọa của các dân tộc du mục phuơng Bắc như Măn, Mông, Tạng..
đă làm cho các Hoàng đế cuối cùng của nhà Minh, mới nghĩ tới việc xây
dựng Trường Thành, mục đích phân biệt ranh giới địa lư và nhân vân của
Trung Nguyên với các dân tộc trên. Đó chính là h́nh ảnh mà người Tây
phương đầu tiên đă mang tới cho thế giới bên ngoài, hồi thế kỷ XVIII và
phổ biến tới ngày nay. C̣n huyền thoại về Vạn Lư Trường Thành do Tần
Thủy Hoàng xây dựng, theo Waldron cũng không phải phát xuất từ sách vở
của người Tàu, mà được Mao Tôn Cương, hồi thế kỷ XIX do các nhà thám
hiểm và khảo cổ Châu Âu. Riêng nhũng ghi chú về Trường Thành, trên bản
đồ mà Bắc Kinh phổ biến hiện nay, cũng là sản phẩm của các Giáo sĩ
truyền đạo Thiên Chúa, thuộc Ḍng Tên, vào thời Nhà Thanh (1644-1912) .
Tóm lại, theo các nhà nghiên cứu trong hội nghị quốc tế vừa được tổ chức
tại Bắc Kinh, th́ Vạn Lư Trường Thành , phần lớn được xây dựng từ thời
Nhà Minh. C̣n quan niệm cho rằng nhửng thành lũy thời Chiến Quốc, được
nhà Tần nối lại với nhau, thành bức Trường Thành, ngày nay kể cả người
Tàu vẫn nghi ngờ về phương diện khảo cổ, c̣n các sử gia th́ nói đây là
sự giả định, v́ không có tài liệu nào minh chứng.
Nhưng đó là chuyện của nước Tàu, nó chỉ liên quan đến chúng
ta, là liệu đập thủy điện Tam Hiệp trên sông Dương Tử, có ảnh hưởng ǵ
tới những đập thủy điện khác, mà Trung Cộng đă xây dựng trên thượng
nguồn của sông MeKong và Hồng Hà,trong tỉnh Vân Nam, trước khi chảy vào
lănh thổ nước ta, được đánh giá như là một sự khủng bố trắng trợn, đối
với vận mệnh của Dân tộc VN. Đây là nguy cơ trước mắt, được cả thế giới
thấy rơ, cho dù Đảng VC đang đô hộ cả nước, v́ sợ Tàu, nên đă cố t́nh
bưng bít nội vụ một cách công khai.
Bao chục năm qua, người Việt trong và ngoài nước đă căm thù
đến tận xương tuỷ, trước những sự việc Trung Cộng xâm lăng cưởng chiếm
lảnh thổ của chúng ta. Nhưng đó cũng chỉ là một trong ngàn muôn nổi buồn
của thân phận nhược tiểu VN, trong biển máu lệ nước mắt thống hận. Bởi
v́ cùng lúc, giặc Tàu c̣n gây ra nhiều cuộc khủng bố khác, mà tàn khốc
nhất là đang xữ dụng những đập thủy điện trên các ḍng sông phat nguyên
trên đất Tàu, chảy vào VN, như một thứ vũ khí môi sinh chiến lược,liên
quan tới sự sống c̣n của dân tộc.
Ai có thể ngăn được sự phẩn uất , trước lời tuyên bố xấc
xược và ngạo mạn của Wang Xiaodong, chuyên viên nghiên cứu của Trung
Cộng, về việc khai thác sông Mekong ‘ Đây là đất nước Tàu, nên muốn làm
ǵ cũng được , ai dám ngăn cản ‘.
Mới đây báo chí tại Trung Cộng đă đồng loạt đăng tải sự lên
tiếng của các chuyên gia môi trường tại Hoa Lục, trong đó có Giáo sư Đại
học về môn đia chất là Yuan Aiguo. Theo họ th́ t́nh trạng ô nhiễm đang
xăy ra trên sông Dương Tử rất nguy kich, ngoài việc gây bệnh ung thư v́
nước uống, ḍng sông có thể chết trong 5 năm sắp tới, do việc đổ xuống
đây tất cả các loại rác rưởi, trong đó có hóa chất độc hại và cả xác tàu
thuyền bị ch́m. Hiện 80% nguồn nước ngọt của Thượng Hải là do sông Dương
Tử cung ứng (80% thiếu vệ sinh và có chứa hoá chất). Dù Tàu Cộng cố bưng
bít nhưng thảm trạng cũng đă bị phanh phui trên ḍng sông Tùng Hoa.
Xem như vậy làm sao các ḍng sông thiêng của VN như Hồng Hà,
Đà Giang, Lô Giang và quan trọng nhất là sông Cưu Long, đều phát xuất từ
bên Tàu, chảy qua tỉnh Vân Nam, trước khi vào lănh thổ chúng ta, chắc
chắn cũng đang mang chung số phận của sông Dương Tử. Có điều chừng nào
VC mới dám công khai lên tiếng phản đối Tàu và thông báo t́nh trạng ô
nhiểm nguy kịch chết người, để đồng bào cả nước biết., một sự kiện đáng
làm trước hết hơn là phung phí ngân khố quốc gia, để lănh tụ và ca sĩ
quốc doanh xuất ngoại làm tṛ cười cho đồng bào tị nạn khắp nơi trên thế
giới.
1- ĐẬP
THỦY ĐIỆN : VŨ KHÍ MÔI SINH CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG .
Giang Nam là tên gọi của lưu vực hạ nguồn sông Dương Tử, do
nhà Thanh (1644-1912) đặt ra, gồm các tỉnh Giang Tây, Giang Tô và Triết
Giang. Miền này thời Đường,Tống được gọi là Giang Châu, nguyên là đất
đai của Bách Việt (Ngô Việt, Mân Việt,Âu Việt và Lạc Việt..), thủ công
tinh xảo, dân trí thanh lịch, non nước hữu t́nh.
Sông Dương Tử c̣n có tên là Trường Giang, đứng thứ ba trên
thế giới sau sông Amazone (Nam Mỹ) và sông Nil (Đông Phi), có chiều dài
6380km, phát nguyên tại vùng rừng núi Thanh Hải (Tây Tạng), từ trên độ
cao 6600m, chảy qua phía tây Tứ Xuyên, xuống phía bắc Vân Nam, rồi đổi
hướng chảy ngược lên phía đông Tỉnh Tứ Xuyên , ngang qua các tỉnh Hồ
Bắc, An Huy, Giang Tô và ra Biển Đông tại Hoàng Hải. Nếu tính luôn các
phụ lưu, chi nhánh chằng chịt khắp miền Hoa Trung, th́ chiều dài của
sông Dương Tử lên tới 80.000 km, với hơn 12 triệu dân, gồm 55 sắc tộc,
sinh sống ở hai bên bờ sông với đủ nghề.
Trên thượng nguồn, sông Dương Tử có 3 khe núi lớn gồm 25
thác đổ, nhiều nơi nước chảy xiết nhất là vào mùa mưa, khiến cho các ghe
thuyền xuôi ngược dễ bị ch́m v́ đá ngầm. Đó là hẽm Kingtanxia dài 5km,
hẽm Wuxia dài 25km và hẽm Xilingxia dài 47km., tuy ngày nay đă được nạo
vét nhưng tàu qua lại vẫn phải có hoa tiêu hướng dẫn để tránh nguy hiểm.
Lưu vực sông Dương Tử hiện nay có hơn 400 triệu người sinh
sống. Ngoài ra vùng này c̣n có 5 hồ lớn, thường đước nhắc nhớ trong các
tác phẩm thơ văn của Trung Hoa . Phân Dương Hồ, chứa nước ngọt , rộng
tới 5000 km2, nằm trong tỉnh Giang Tây, gần thành phố Vũ Hán. Động Đ́nh
Hồ có các sông Tiêu và Tương đổ nưóc vào và thông với Trường Giang qua
sông Hán. Hồ nằm phía tây tỉnh Hồ Nam,nổi tiếng với Nhạc Dương Lầu, măng
tre Thần Châu và quít ngọt Động Đ́nh Hồng. Thái Hồ chứa nước mặn nằm
giữa hai tỉnh Giang Tô và Giang Tây. Sào Hồ và Tây Hồ .
+ ĐẬP
THỦY ĐIỆN TAM HIỆP TRÊN SÔNG DƯƠNG TỬ :
Tháng 12-1994, Trung Cộng chính thức khởi công xây dựng Đập
Thủy Điện Tam Hiệp (Three Gorges Dam), trên khúc sông Dương Tử , chảy
trong tỉnh Hồ Bắc, vừa để khống chế nạn lụt hàng năm, đồng thời xây dựng
một nhà máy thủy điện với công suất tổng cộng lên tới 12.000 MW. Để thực
hiện công tŕnh trên, đảng cộng sản đă đuổi hơn 1,5 triệu người dân bản
địa, đồng thời làm xáo trộn sinh hoạt của 20 thành phố lớn nhỏ trong
vùng.
Tam Hiệp, địa điểm được chọn để xây dựng đập thủy điện, là
tên một khúc sông Dương Tử dài hơn 200km, từ phía tây tỉnh Tứ Xuyên,
chảy qua phía đông tỉnh Hồ Bắc, được coi như điểm nối của vùng thung
lũng Tứ Xuyên với các đồng bằng miền Hoa-Trung, phía dưới hạ nguồn. Khúc
sông này chảy qua ba hẽm núi lớn và 25 thác đổ. Theo nhận xét của nhiều
bậc thức giả trong và ngoài nước, th́ dự án Đập Thủy Điện Tam Hiệp tuy
đă được manh nha từ thời Dân Quốc, do Tôn Dật Tiên đề xướng. Nhưng bị
các hội bảo vệ môi trường sinh thái địa cầu chống đối, v́ nó sẽ hủy diệt
vĩnh viễn cănh quan thiên nhiên trong vùng, đồng thời xóa tên 140 thành
phố lớn nhỏ, 4500 làng mạc, 30.000 ha đất trồng trọt, hằng ngàn di tích
lịch sử và tiêu phí một ngân khoản khổng lồ, mà không chắc đạt được kết
quả mong muốn.
Với nước Tàu, từ trước tới nay sông Dương Tử là nguồn nước
tưới cho cả khu vực đồng bằng Hoa Trung, miền đất cá và gạo, chiếm nửa
tổng sản lượng của cả nước. Nhưng đồng thời sông Dương Tử cũng là tai
ương ngàn năm của Hán Tộc, riêng trong thế kỷ XX lụt lội đă gây cho hơn
300.000 dân chúng trong vùng thiệt mạng. Giống như sông Mekong, sông
Dương Tử cũng phát xuất từ Tây Tạng, chảy qua khu vực Tam Hiệp, trước
khi vào thành phố Trùng Khánh, được coi như lớn nhất hiện nay tại Hoa
Lục.
Từ nhiều lư do, trong đó quan trong nhất cũng vẫn là mục
tiêu chính trị,khiến cho Bắc Kinh đă nhắm mắt lao vào một công tŕnh rất
tốn kém về tiền bạc, sức người lẫn thời gian,gây ảnh hưởng nặng nề đến
vấn đề tâm lư, khi đàn áp đuổi dân, phá hoại các công tŕnh kiến trúc
bao đời trong vùng. Thực hiện được đập thủy điện này, về quốc tế Trung
Cộng sẽ hănh diện có thêm một kỳ quan, sau Vạn Lư Trường Thành. Về kinh
tế, Đảng Cộng Sản nuôi hy vọng, nhờ nó giúp mức phát triển 11% hàng năm
qua nguồn cung cấp điện cho công nghệ và sinh hoạt.
Đây là một cái đập khổng lồ , kinh phí dự chi tốn khoảng 30
tỷ đô la, thực hiện trong 14 năm. Chiều cao của dập 607 bộ, chiếm một
diện tích hơn 1 dặm vuông., bao gồm một hồ chứa nước dài 370 dặm và một
hệ thống khóa đặc biệt : Hút nước từ các nguồn nước khác khi thiều, cũng
như xă nước vào mùa lụt, vừa giúp sự giao thông trên sông Dương Tử, đồng
thời vét vơ nước từ các con sông khác, qua hệ thống kênh đào, để tưới
cho các vùng đất khô hạn xa xôi ở phía tây.
So với các đập thủy điện khác trên thế giới, dập Tam Hiệp
không cao và rộng hơn nhưng lại trội nhiều về sức mạnh, với 26 Turbin mà
trọng lượng mỗi chiếc 400 tấn/1 chiếc, sẽ tạo ra 18.200 magawatt điện,
công suất tương đương với 18 nhà máy điện nguyên tử. Đập này mạnh hơn
các đập Itapu (giữa Brazil và Paraguy có công suất 12.600 megawatt ),
dập Guri ở Venezuela có 10.300 megawatt, dập Grand Coulee ở Colorado của
Mỹ có 6809 megawatt và đập Sayano Shushensk ở Nga với 6400 megawatt.
Theo nhận xét của thế giới, Trung Cộng đă tốn hết 75 tỷ Mỹ
kim cho công tŕnh vĩ đại này (chứ không phải 19 tỷ như tuyên bố của
đảng) . V́ mục tiêu chính trị, Trung Cộng không cần biết tới tính khả
thi và hiệu quả kinh tế của dự án, hầu như đều bị sự phê b́nh chỉ trích
của các nhà đầu tư và tài chính quốc tế. Bởi thế nên không làm lạ khi
nghe Phó giám đốc xây dựng đập là Cao Guangjing, nói rằng muốn biết đập
có hoàn hảo hay không, phải đợi tới 30 năm sau mới thấy được.
Chưa hết, Trung Cộng c̣n cho biết sau khi hoàn tất đập Tam
Hiệp vào năm 2008, Đảng lại tiếp tục xây thêm 10 đập khác trên thượng
nguồn sông Dương Tử, nối tiếp vùng Tam Hiệp. Điều lo lắng nhất của người
Tàu hiện nay, là làm thế nào để có thể giảm nhanh chóng một biển nước
khổng lồ , luôn được chứa trong hồ với độ cao từ 512-574 ft, khi mùa mưa
tới. Thăm kich về đập thủy điện Banqiao ở Hồ Nam, vào năm 1975 mưa nhiều
vở đê kéo theo sự sụp đổ của cả một hệ thống đập chung quanh, gây lụt
lội làm chết hơn 230.000 người. Nhưng Trung Cộng đă ém nhẹm tới gần đây
thế giới mói biết. Ngoài ra đập thủy điện Tam Hiệp chưa khánh thành
nhưng nhiều dấu hiệu bể nứt đă thấy xuất hiện. Điều này cũng dễ hiểu, v́
trong thế giới của các nước xă hội chủ nghĩa anh em (Tàu,Nga, VC,Bắc
Hàn, Cu Ba), gần hết ngân khoản của các công tŕnh xây dựng, đều bị cán
đảng và quan quyền lớn nhỏ, móc ngoặc với nhà thầu, chia, chặt, xén, bỏ
túi.. cho nên đâu có kiến trúc nào được toàn vẹn, v́ vậy chưa bàn giao
đă lung lay hay sứt mẽ là cái chắc.
+ HỆ
THỐNG ĐẬP THỦY ĐIỆN TẠI TỈNH VÂN NAM, TRÊN SÔNG MEKONG VÀ HỒNG HÀ CHẢY
VÀO VN :
Sông MeKong phát nguyên từ Tây Tạng, chảy qua Trung Hoa,
Lào, Thái Lan, Miến Điện, Kampuchia và VN rồi ra Biển Đông tại chín cửa
lớn nhỏ, nên phần sông chảy trong lănh thổ VN, mới có tên là Cửu Long
Giang. Cũng v́ ḍng sông có sự liên quan của nhiều nước, nên đă có
chương tŕnh hợp tác phát triển lưu vực sông Mekong, do nhiều tổ chức và
các định chế tài chính quốc tế tham gia. Trên lư thuyết, đă có tới sáu
chương tŕnh và dự án phát triển con sông trên. Chương tŕnh Ủy ban sông
Mekong (MRC), do LHQ khởi xướng từ năm 1957, nhằm quản lư nguồn nước và
tài nguyên của sông, được xúc tiến mạnh sau năm 1975, khi chiến tranh
Đông Dương lần 2 chấm dứt.
Năm 1992, Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) lại khởi xướng
chương tŕnh hợp tác sông Mekong, giữa các nưóc liên hệ (GMS), thúc đẩy
sự đầu tư khai thác của các nước trong vùng, qua các dự án đầu tư do ADB
chi phối. Năm 1993, Nhật Bản đề xướng diễn đàn phát triển toàn diện Đông
Dương (F&DI), chú trọng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng có
sông Mekong chảy qua. Tiếp theo Nhật lại đưa thêm dự án AEM-MITI nhằm
giúp Miến Điện, Lào, Kampuchia chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Cũng
năm 1993, Thái Lan lại đề xướng chương tŕnh hợp tác sông Mekong, nhằm
phát triển khu vực sông chảy qua các nước Tàu, Miến Điện, Thái Lan và
Lào.
Tháng 12-1995, Tân Gia Ba và Mă Lai lại đề xướng dự án hợp
tác phat triển sông Mekong của các nước thành viên Asean có sông Mekong
chảy qua, ưu tiên là đặt hệ thống đường sắt.. Nhưng tất cả đều là lư
thuyết, v́ Trung Cộng là nước ở thượng nguồn sông Mekong, chẳng bao giờ
tôn trọng các ảnh hưởng, sự tác động và lợi ích kinh tế của những nước
khác ở hạ nguồn. Trung Cộng đă ỹ ḿnh nước lớn, nên đă bất chấp sự phản
đối của các nước liên hệ, bao chục năm qua đă xây dựng cả hệ thống Đập
Thủy Điện trên sông Mekong, trong tỉnh Vân Nam, gây thiệt hại nhiều nhất
cho hai nước hạ nguồn là Kampuchia và VN.
Thật ra âm mưu khống chế sông Mekong, được Trung Cộng manh
nha từ năm 1970. Do sự cô lập và bưng bít nên măi tới năm 1989 khi Đặng
Tiểu B́nh mở cửa đón tư bản vào cứu đảng, người ta mới biết được đại
khái là Hoa Lục đang xúc tiến các dự án đập thủy điện tại Vân Nam. Theo
tài liệu chính thức của Tỉnh Ủy Vân Nam và lời xác nhận của Hiroshi
Hiro, người Nhật, một chuyên gia về sông Mekong, cho biết Trung Cộng đă
xây dựng tới 14 con dập bậc thềm, trên thượng nguồn sông này, đó là chưa
kể các con đập khác ở các phụ lưu và trên sông Hồng Hà. Theo thứ tự từ
Bắc xuống Nam, ta thấy các đập thủy điện Liutongsiang, Jiabi,
Wunenglong, Tuoba, Huangdeng, Tiemenkan, Guongguoqiao, Công Quả Kiều,
Xiaowan, Tiêu Loan, Manwan, Daichaoshan, Đại Triều Sơn, Nuozhado, Nọa
Trát Độ, Jinhong, Cảnh Hồng, Ganlanba và Mănh Ṭng.
Sông Mekong hay Dza-Chu (Nguồn nước của đá), phát nguyên từ
cao nguyên phía đông Tây Tạng, dài hơn 4000 km, chảy về hướng Nam, băng
qua những hẽm núi sâu và rừng núi hoang lạnh của tỉnh Vân Nam với cái
tên Lan Thương Giang (Lancang Jiang). Riêng khúc sông chảy giữa biên
giới Lào-Thái mang tên Mae Nam Khong. Tại Cam Bot sông lại có tên là
Tonle Thom và cuối cùng Cửu Long Giang trong lănh thổ VN.
Trong cuốn sách ‘ Lan Thương Giang - Tiểu Thái Dương ‘ , do
Vân Nam Nhân Dân Thư Xă ấn hành bằng tiếng Tàu, từ đầu tới cuối chỉ đề
cao tới tiềm năng của sông cần khai thác, tuyệt nhiên chẳng thấy nói tới
hậu quả nào do chuổi đập gây thiệt hại tới các nước ở hạ lưu. Điều này
dễ hiểu,v́ Trung Cộng luôn coi đó như một bí mật quốc pḥng, thứ vũ khí
môi sinh chiến lược, để khủng bố VN, quốc gia cuối cùng nơi ḍng sông
thoát ra biển.
Tóm lại chỉ riêng với ba con đập đầu tiên được xây dựng trên
thượng nguồn Mekong là dập Mạn Loan, Đại Triều Sơn và Cảnh Hồng, với các
triền núi cao dùng làm vách hồ chứa nước vào mùa mưa và xă nước trong
mùa nắng. Hậu quả sông Mekong sẻ không c̣n những cơn lụt hằng năm, mang
phù sa và các loại thủy tộc, từ thượng nguồn xuống Biển Hồ, sông Tiền,
sông Hậu. Cuối cùng các hồ chứa nước tại Vân Nam, sẽ giữ lại hết phù sa
và nước ngọt tại chuổi đập bậc thềm , làm cho Biển Hồ khô chết, c̣n đồng
bằng miền Nam ven biển Đông, sẽ bị ngập mặn v́ ḷng sông thấp hơn mực
nước biển.
Trước mắt những con đập tại Vân Nam, thường trực gây bất
thường cho ḍng sông Mekong, làm xói lở hai bờ , đọng nhiều muối trên
đất, nguồn phù sa hằng năm từ thượng nguồn bị giữa lại, làm cho ruộng
thiếu nguồn phân bón thiên nhiên. Tai hại hơn, là Trung Cộng đă trút đổ
những chất phế thải độc hại từ các nhà máy công nghệ như ch́, kẽm,
cyanide.. gây ô nhiểm nước uống và hệ thủy sản trên sông, nhất là các
loại cá .
Tháng 12-2001, theo tin Asian Pulse cho biết là Trung Cộng
lại khởi công xây đập Tiểu Loan trên khúc giữa Lạn Thương Giang, lớn thứ
nh́ trên nước Tàu, chỉ thua đập Tam Hiệp. Đập này có công suất điện 4200
MW, cao nhất thế giới 292 m, riêng hồ chứa nước lên tới 15 tỷ m3 khối
nước, từ nguồn sông Mekong. Đập hoàn thành năm 2010 với kinh phí 4 tỷ
đola.
Ngày nay Trung Cộng đă công khai đe dọa thế giới, trực tiếp
đối đầu với Mỹ, Nhựt, Liên Âu và LHQ, nên đâu có lạ khi thấy người Tàu
toàn quyền khai thác sông Mekong và từ chối tham dự Ủy hội bảo vệ con
sông này vào năm 1995 cũng như không cầm đếm xỉa tới thảm họa môi sinh
của 5 nước dưới hạ nguồn. Thế giới ai cũng nh́n thấy rơ, nhát là mưu đồ
dùng sông Mekong như một thủy lộ, khi có cuộc chiến trong tương lai gần.
2- ĐỒNG
BẰNG VÀ SÔNG NG̉I VN, TRƯỚC THẢM HỌA KHỦNG BỐ CỦA TÀU :
Diện tích VN hiện nay là 331.000 km2, trong đó hai đồng bằng
Bắc và Nam Việt, xưa nay được coi như là vựa lúa gạo của cả nước. Miền
châu thổ Bắc Việt h́nh thang, giới hạn bởi tứ giác Phủ Lạng Thương, Đồ
Sơn, Việt Tŕ và Phát Diệm., với diện tích 15.000 km2, chỉ chiếm 12% Bắc
Phần (115.700 km2), được h́nh thành bởi phù sa sông Hồng Hà và Thái
B́nh.
+ SÔNG
HỒNG HÀ : Phát nguyên từ rặng Ngụy Sơn, kế Đại Lư Hồ trong tỉnh Vân Nam
(Tàu), có chiều dài 1200 km, phần chảy trên đất Trung Hoa gọi là sông Ma
Lung hay Nguyên Giang. Riêng 500 cây số trong lănh thổ VN, được gọi là
Nhĩ Hà, Hồng Hà hay Sông Thao.
Sông vào địa phận Bắc Việt tại Hà Khẩu (Lào Kai), trước khi
ra biển Đông, đă tiếp nhận nhiều phụ lưu quan trọng như sông Lô ở tả
ngạn. Sông này c̣n có tên là Thanh Giang, cũng phát nguyên từ bên Tàu và
chảy vào VN tại Hà Giang, rồi đổ vào sông Hồng ở Việt Tŕ. Sông Lô c̣n
có hai phụ lưu là sông Gầm va sông Chẩy thông với hồ Ba Bể.
Sông Đà bên hữu ngạn,cũng phát nguyên từ Vân Nam, chảy vào
VN song song với sông Hồng và đổ vào sông này tại Việt Tŕ. Ngoài ra c̣n
có nhiều sông nhỏ khác, cũng đổ vào Nhĩ Hà như Nậm P̣, Nậm Na, Nậm Mấc,
Ng̣i Thia, Ng̣i Lao ở thượng nguồn. Phía gần biển, có thêm các phụ lưu
Sông Luộc, sông Đuống, sông Ninh Cơ, Trà Lư.. Tất cả đă mang phù sa bồi
đắp cho cánh đồng lúa mùa, miền Hạ Du, ngay từ thời Văn Lang lập quốc
cho tới bây giờ. Từ Hà Nội lên Lào Kai, xuyên biên giới đi Vân Nam ,có
con đường sắt được thiết lập từ thời Pháp thuộc, chay song song với tả
ngạn sông Hồng, qua những nhà ga Bảo Hà, Trái Hút, Phố Lu.. mang đầy
huyền thoại trong kho tàng văn học dân gian, về các câu chuyện ‘ Ma-Cọp
‘.
Lào Kai là tỉnh địa đầu của miền tây bắc, chỉ cách Trung
Cộng có cây cầu biên giới Cốc Lếu, nên trong cuộc chiến năm 1979, giặc
Tàu gần như làm cỏ thành phố, măi cho tới năm 1991 mới chỉ có 1700 gia
đ́nh trở về nhà cũ của ḿnh.. Ngày nay nhờ chương tŕnh du lịch Sapa và
nhất là buôn lậu ,nên Lào Kai dân số gần 100.000 người. Thị xă nằm ngay
trên ngả ba sông Nậm Thị từ Vân Nam đổ vào sông Hồng. Cầu Hồ Kiều dài
200m, ngăn đôi hai nước, bên này là Lào Kai, phía bên kia là thị trấn Hà
Khẩu, thuộc châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam.
Sông ra biền bằng cửa Ba Lạt và Trà Lư ở thị xă Thái B́nh.
Trước đây khi Trung Cộng chưa xây dựng các đập thủy điện trên thượng
nguồn của sông chảy trong tỉnh Vân Nam, th́ Nhĩ Hà có lưu lượng rất lớn
và thay đổi tuỳ theo mùa, từ 300m3/1 giây - 28.000 m3/1 giây nhưng trung
b́nh là 700m3/1giây.. Nước sông dâng cao thường vào mùa mưa, tại Hà Nội
có khi dâng cao tới 12m, trong khi mùa nắng mực nước chỉ có 2m.. Từ
trước tới nay vùng Hoa Nam và Bắc Phần có nhiều mưa về mùa hè, làm cho
mực nước sông Nhị dâng cao rất nhanh. Lúc trước tại Vân Nam, rừng chưa
bị đốn để dựng đập nước, nên mùa mưa, phần nào giữ được nước tuôn từ
thượng nguồn về.
Nay Trung Cộng xây đập khắp nơi, mùa nắng th́ giữ nước ngọt
lại trong hồ chứa để mà tưới , trái lại mùa mưa th́ mở đập để nước trên
sông lẫn trong hồ, tuôn về hạ nguồn, cho nên mấy năm qua, Hà Nội và các
tỉnh Bắc Phần luôn bị nạn lụt. Trong khi đó , hệ thống đê điền ở miền
Bắc tuy dài hơn 4000km, nhưng lại có quá nhiều khuyết điểm, chẳng hạn
như đê phải đắp cao theo t́nh h́nh mực nước, khiến cho đê thường bị vở.
Ngoài ra v́ bị đê ngăn chặn phù sa, khiến cho đồng bằng Bắc Phần lần hồi
không được bồi đắp, nên càng lúc thêm cằn cổi, thu hoạch kém, tốn nhiều
phân bón.
Riêng hệ thống sông Thái B́nh, dài độ 340km, chảy từ Phả
Lại, qua Hải Dương ra biển, với các phụ lưu là sông Lục Nam, sông Thương
và sông Cầu, đều phát nguồn trong nội địa VN. Tuy nhiên v́ Sông Nhị có
hai phụ lưu ở tả ngạn là sông Đuống và sông Luộc, đều chảy vào sông Thái
B́nh, cho nên hệ thống sông này cũng bị ảnh hưởng khi nguồn nước hay
ḍng chảy của sông Hồng bị tắt nghẽn hay bất thường. do những ảnh hửng
từ thượng nguồn bên Vân Nam gây ra.
+ ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỬU LONG :
Ngày nay đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm 12 tỉnh miền tây
Nam phần : Long An, Mỹ Tho, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An
Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bac Liêu và Cà Mâu. Khu vực này
chiếm một diện tích 40.000 km2 với hơn 16 triệu dân, gồm người Việt,
Khmer, Hoa và Chàm. Do cấu tạo môi trường thiên nhiên khác nhau, ảnh
hưởng từ sông, biển và khí hậu, nên khu vực này được chia thành bốn vùng
riêng biệt :
- Vùng phù sa nước ngọt : Từ nguồn sông chính tại Kampuchia,
Mekong chảy vào Nam Phần bằng hai nhánh tại Châu Đốc và Hồng Ngự, xuống
tận Mỹ Tho, Bến Tre. Khu vực này chiếm một diện tích hơn 1 triệu Ha,
phần lớn là vườn cây ăn trái đủ loại, mọc bạt ngàn theo hai bờ sông Tiền
và Hậu, cùng với một hệ thống kênh rạch chằng chịt như mạng nhện. Đặc
biệt giữa ḍng sông thường có nhiều cù lao lớn nhỏ như Cồn Phụng, Lân,
Qui tại Mỹ Tho, cù lao Ông Hổ ở An Giang, cù lao Tân Lộc (Thốt Nốt-Cần
Thơ), cù lao B́nh Ḥa Phước tại Vĩnh Long..
- Vùng phù sa nước mặn : Chiếm diện tích khoảng 900.000 Ha,
bao gồm lưu vực các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc
Trăng, Cà Mau. Đặc điểm vùng này là có nhiều rừng nguyên sinh ngập măn,
nhiều khu vực tập trung hàng ngàn loại chim c̣ đủ loại tại Vàm Hồ (Ba
Tri-Bến Tre), Bạc Liệu hay Chùa Dơi (Sóc Trăng)..
- Vùng bán đảo Cà Mau : Nằm cuối miền Nam nước Việt, rộng
chừng 1 triệu Ha và hằng năm được phù sa của sông Hậu, bồi đắp thêm làm
cho Mũi Cà Mâu càng lấn ra biển từ 60 ố 80m. Tại đây c̣n nhiều khu rừng
tràm, đước được dùng làm củi đốt từ xưa tới nay Khắp khu vực có nhiều
Sân Chim C̣, Cốc hơn 40 loại, sống tại Ngọc Hiển, U Minh, Ḥn Khoai. Đây
cũng là vựa tôm, cá và đặc biệt là mật ong nổi tiếng của Miền Nam.
- Vùng Đồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long Xuyên : Rộng 1
triệu ha, được coi như là những hồ chứa nước thiên tạo, vào mùa sông
Tiền-sông Hậu lụt lội, nhờ vào năm miền trũng thấp. Trong số này quan
trọng nhất vẫn là Đồng Tháp Mười, với các khu rừng tràm Xẻo Quít (20
Ha), Tràm Chim (2441Ha).. có hơn 141 loài chim sinh sống, nhiều nhất là
loài sếu đầu đỏ.
Nói chung đồng bằng sông Cửu Long được tạo thành bởi phù sa
của hai nhánh sông Mekong, gọi là sông Tiền (Ḍng chính) và sông Hậu,
được chia thành chín nhánh nhỏ h́nh rẽ quạt, đổ ra biển bằng chín cửa,
lại tạo thành nhiều cù lao rất ph́ nhiêu. Trong lănh thổ VN, phía thượng
nguồn, sông Cửu Long làm thành vùng trũng như những hồ chứa nước thiên
nhiên trong mùa lụt. Về phía biển, đồng bằng được phù sa bồi đắp cao
ráo, thành những giồng để cất nhà cửa, lập vườn cây ăn trái . Ḍng sông
cho nhiều tôm cá quanh năm, bù đắp phù sa như một thứ phân bón hữu to
rất tốt cho đồng ruộng. Toàn vùng, Mỹ Tho được coi là lư tưởng nhất cho
nghề nông v́ đất đai ph́ nhiêu, sông rạch đầy tôm cá, người dân làm chơi
ăn thiệt, cuộc sống sung túc, tạo thêm dân trí lễ nghĩa với các thú vui
nghệ thuật, mà phát triển nhất nếp sống miệt vườn tao nhă qua đờn, ca,
hát xướng, thơ ngâm, ḥ đáp khi chèo thuyền giả gạo.
Sông Tiền Giang chảy ngang qua thành phổ cổ kính Mỹ Tho,
trước khi ra biển bằng nhiều nhánh. Giữa những nhánh sông có các cù lao
rộng lớn ph́ nhiêu, làm thành tỉnh Bến Tre nổi tiếng với rặng dừa xanh
lơn nhất nước. Trường Trung Học danh tiếng Nguyễn Đ́nh Chiểu tại Mỹ Tho,
được coi như là ngôi trường đầu tiên của người Việt tại Nam Phần, trong
lúc Sài G̣n mới có ngôi trường Trung học dành cho con cái người Pháp
(nay là trường TH.Lê Quy Đôn) , lập hồi cuối thế kỷ XIX. Vào năm 1926,
Sài G̣n mới có trường TH.Petrus Kư, dành cho người Việt.
Đất G̣ Công sát biển, nổi tiếng với Đức Từ Dũ (Mẹ ruột vua
Tự Đức nhà Nguyễn), căn cứ chống thực dân Pháp của anh hùng Trương Định
(1863). Ngược về phía nam, xuyên QL4 (nay là QL1), trước khi đến cầu Mỹ
Thuận (thay thế phà), hai bên đường lẫn bờ sông, nhà cửa san sát, xen
lẫn với vườn đủ loại trái cây và đồng ruộng lúa nước xanh um ngút mắt.
Qua cầu, quẹo về hướng biển non 10 cây số, là tới Vĩnh Long,
miền đất hiền lành xinh đẹp nằm trên Sông Cổ Chiên, một nhánh của Cửu
Long. Chợ tỉnh trải dài theo bờ sông bồng bềnh những giề Lục B́nh hắt
hiu trong màu phù sa làm cho nước vàng đục. Thành cổ xưa c̣n đó với cây
đa cổ thụ, làm nhớ tới Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông.. người uống thuốc
độc quyên sinh để đền nợ nước, kẻ thỉ rời bỏ quê làng chôn nhau cắt rút,
dắt díu gia đ́nh ra tận B́nh Thuận tị địa vào năm 1867, khi thành Vĩnh
Long bị thực dân Pháp đánh chiếm. Gần chợ nay vẫn c̣n Văn Thánh Miếu
được lập ra thờ Khổng Tử, nhưng ngày nay người Việt đến cúng bái, gần
như chỉ biết tới Phan Thanh Giản và Nguyễn Thông mà thôi.
Bên kia sông Hậu là thành phố Cần Thơ, sung túc bề thế và
xinh đẹp chỉ thua Thủ đô Sài G̣n. nên xưa nay vẫn được đời xưng tụng là
Thủ phủ của Miền Tây-Nam Nam Phần, phát triển ngay từ đầu thế kỷ XX,
ngay khi miền Hậu Giang trở thành vựa lúa gạo nuôi sống cả nước. Nhờ vậy
mà cả cánh đồng lau sậy, tràm được, cá sấu, muỗi ṃng, giữa sông Hậu và
Vịnh Phú Quốc, được khai thác, đào kênh, đắp đường, mở mang làng xóm,
trù phú như ngày nay. Thời Pháp thuộc, Cần Thơ có Chi nhánh Ngân hàng
Đông Dương, Nhà máy Điện lực rất lớn, cung cấp điện cho các tỉnh lân
cận. Trường Trung học Công lập Phan Thảnh Giản thành lập từ năm 1926,hơn
trăm năm qua đă đào tạo không biết bao nhiêu nhân tài của đất nước,
trong đó không thể không nhắc tới Nhà Quân Sử nổi tiếng hiện nay tại hải
ngoại là Pham Phong Dinh..
Cuối nước Việt, về hướng biên giới,đầu tiên là Cảng Cá,nằm
ngay Vàm sông Ông Đốc, qui tụ nhiều tàu đánh cá lớn khắp vùng. Xa hơn là
Ngư Cảng Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang, nổi tiếng nhất nh́ trong nước,
ngang hàng với Ngư Cảng Phan Thiết-B́nh Thuận. Biển ở đây cạn, nhiều bùn
lại nhiều muỗi ṃng nhưng ngược lại đầy tôm cá. Ngoài khơi Rạch Giá có
hằng trăm đảo thuộc chủ quyền VN, trong đó có Ḥn Tre diện tích lớn, dân
đông.Kế bên là Ḥn Sơn Rái nổi tiếng làm nước mắm cá biển
Sát biên giới Việt-Kampuchia là Thị Xă Hà Tiên,phong cảnh
hữu t́nh với Đông Hồ, núi Tô Châu, ngôi chợ tuy nhỏ nhưng đây cổ kính.
Đối diện là Hải Đảo Phú Quốc, lớn nhất VN, chuyên trồng tiêu, làm nước
mắm, ngư nghiệp
Từ Chợ Hà Tiên đi ngược lên dọc theo biên giới có Kênh Vĩnh
Tế do Thoại Ngọc Hầu đào vào thập niên 1920, thời Vua Minh Mệnh nhà
Nguyễn. Kênh này như một thủy đạo, nối liền sông Hậu thông ra Vịnh Phú
Quốc. Vùng này trũng thấp, đất phèn mặn, nên ruộng đồng hoàn toàn bị
ngập, vào mùa lụt do sông Cưu Long dâng cao. Bảy Núi hay Thất Sơn bao
gồm nhiều ḥn lớn nhỏ, chạy dài trên 30km, mà đỉnh cao nhất là ngọn Núi
Cấm (700m),mây trắng che mịt mù vào mùa đông, trong nuí có nhiều hang
động thiên nhiên, trên sườn mọc đầy sắn, đậu, hoa quả và các cây thuốc
Nam.
Kế cận là Thị Xă Châu Đốc, nổi tiếng ba miền là Miểu Thờ Bà
Chúa Xứ Núi Sam, được xem là chốn linh thiêng, quanh năm có rất nhiều
thiện nam tín nử tới hành hương cúng kính.. Chợ Châu Đốc xây trên bờ
sông Hậu, dưới sông tấp nập ghe thuyền. Phia bên kia sông có nhiều Làng
Chàm Hồi giáo, chuyên sinh sống bằng ngư nghiệp và nghề dệt dệt tơ lụa.
Thành phố Long Xuyên là thủ phủ của tỉnh An Giang, lúa gạo
sung túc, đang phát triển mạnh nghề nuôi cá bè trên sông Hậu. Đây là
miền đất được mở mang sớm nhất ở Nam Phần, ngay từ năm 1700 khi Thống
Suất Nguyễn Hửu Cảnh, được lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, tới đây cũng cố
biên giới, v́ vậy các lưu dân từ Thuận Quảng theo chân đoàn quân vào đậy
lập nghiệp rất đông đảo. Tại An Phú, đầu nguồn của sông Hậu trong tỉnh
An Giang, nay c̣n sót lại Búng B́nh Thiên, có diện tích rộng hơn 30.000
m2, là một vùng đất bị bỏ hoang v́ nước sâu không thể trồng lúa được.
Láng mọc đầy Sen và cỏ dại, là nơi chung sống của đủ loài thủy tộc, từ
cá tôm, cho tới rắn rùa, sống dưới rừng củ co, bông súng, rau tràng..
cảnh sắc không ǵ thay đổi như từ hai ba thế kỷ trước. An Phú c̣n có tới
4 chợ trời biên giới và đông đảo người Chàm theo Hồi giáo cư ngụ.
Sa Đéc hiện nay chỉ là thị trấn, trong khi Cao Lănh trở
thành thị xă tỉnh lỵ của Đồng Tháp. Nằm bên hửu ngạn sông Hậu, Sa Đéc là
vùng đất cổ, nổi tiếng với những vườn cây ăn trái của Nam Phần,nhờ khí
hậu trong lành so với các tỉnh khác. Chợ Sa Đéc đẹp, vùng lân cận nổi
tiếng về sản xuất hoa hồng. Trên con đường từ chợ tới Bắc Vàm Cống, có
hai làng nghề truyền thống là Nem Lai Vung và Chiếu Lấp Ṿ. Ngoài ra tại
làng Định Yên, c̣n có một Chợ chiếu độc đáo, mà người điạ phương gọi là
‘ Chợ Ma hay Chợ Âm Phủ ‘, v́ chợ chỉ nhóm họp hằng đêm từ 12 giờ khuya
tới hừng sáng th́ dẹp. Đây là truyền thống đă có từ 100 năm qua, chuyên
bán sĩ và lẽ hai loại chiếu ‘ Hà Niên’là loại chiếu bông vuông nhỏ và
loại ‘ Vẩy Ốc ‘ màu trắng, bông được in bằng khuôn, làm rất công phu, để
lâu không bị bay màu và lên mùi mốc.
Đồng Tháp Mười là vùng đất trũng, nhiều phèn, vào mùa lụt
nước sông dâng cao tới 4m, cá tôm nhiều nhưng muốn có phải mua sắm dụng
cụ mới khai thác được.. Tại đây c̣n có một loại lúa trời, mọc tự nhiên,
ăn được nhưng không ngon. Trước đây Đồng Tháp Mười coi như một đồng cỏ
khổng lồ, ngày nay nhiều khu vực đă được khai khẩn để trồng lúa. Dân cư
tứ xứ tới đây làm ăn rất đông, nhất là khu vực tiếp xúc với hai con sông
Vàm Cỏ Đông và Tây.
Tại những tỉnh về phía Nam, nơi hạ nguồn của sông Hậu như
Trà Vinh, Sóc Trăng, đồng bằng được phù sa bồi đắp, thành những giồng
đất cao ráo, không bị úng lụt v́ nước rút ra biển rất nhanh. Đây là địa
bàn cư trú cũa người Việt gốc Khmer và người Minh Hương (Tiều Châu chiếm
đa số) . Ngoài những cánh đồng lúa, ruộng muối c̣ bay thẳng cánh ở Bạc
Liêu, dân địa phương c̣n trồng nhiều hoa màu phụ như cải, dưa hấu, cây
ăn trái.. Với người Việt gốc Khmer, th́ thu nhập chính vẫn là cấy lúa
ngắn hạn loại Thần Nông, trên đất cao không cần nhiều nước.
3-TRỜI
HÀNH LỤT LỘI MỖI NĂM TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG :
Từ trước tới nay, các tỉnh từ Hà Tĩnh vào tới Quảng Trị,
thuộc Miền Trung nước Việt, luôn luôn hứng chịu thảm trạng chiến tranh
và sự khắc nghiệt của thời tiết,thêm vào đó Rặng Trường Sơn lấn ra sát
biển, làm cho đồng ruộng cằn khô v́ cát lẫn với đá núi. Cho nên trong
dân gian đă có câu ca dao ‘ Trời hành cơn lụt mỗi năm, mùa đông thiếu
áo, mùa hè thiếu cơm ‘.Lời than thở này bây giờ đă vượt biên giới và trở
nên thân quen đối với đồng bào miền Châu Thổ Sông Cửu Long,v́ năm nào
cũng phải cât lực đối phó với t́nh trạng lụt lội, đă trở nên thường trực
trong cuộc sống của mọi người.
Trong ḍng sinh mệnh của dân tộc Việt, tổ tiên ta bao đời
vừa phải ngăn chống giặc ngoại xâm, đồng thời cũng luôn luôn diễn ra
cuộc chiến sống chết chống thiên tai bảo lụt, khắp ba miền Trung, Nam ,
Bắc., mỗi miền có một địa h́nh, thời tiết khác nhau nên cách pḥng chống
cũng vô cùng phức tạp.
Dựa vào tài liệu của bao đời lưu lại, ta thấy người xưa đă
biết rất rơ ràng phương pháp trị thủy. Miền Trung điạ h́nh hẹp và dốc,
sông ngắn nên lụt lội dâng lên rất mau., phải luôn đề pḥng để kịp thời
pḥng chống. Ở Bắc phần, đồng bằng thấp hơn mực nước sông vào mùa lụt từ
5m ố 7m, v́ vậy cần phải đắp đê rất cao để ngăn lụt. Hằng năm vào mùa
mưa, nước từ thượng nguồn bên Tàu chảy về, cộng thêm nước từ miền Trung
Du và đồng bằng, lại c̣n thủy triều và nước biển dâng cao, do ảnh hưởng
của bảo, là nguyên nhân mà các thời đại VN trong lịch sử, phải đắp đê
ngăn ngừa lụt ở miền Bắc.
Năm 886 sau Tây lịch, miền Bắc đă bắt đầu khởi công xây dựng
hệ thống đê điền, doc theo các con sông Hồng,Thái B́nh và nhiều con sông
quan trọng khác.. Hiện nay qua báo cáo, hệ thống đê tại Bắc Việt dài tới
3500 km,tổng khối lượng đất đá xữ dụng là 400 triệu m3, gồm 260 bờ kè,
800 cống thoát nước. Những con đê với bờ cao, dốc thoải,thảm cỏ xanh
rờn, uốn lượn hai bờ sông, đă vẽ nên bức tranh quê làng VN, thật là êm
đềm hạnh phúc. Khắp nơi chen chúc ruộng đồng, vườn tược và nhà cửa đ́nh
làng, ân hiện sau lũy tre xanh, đă nói lên thể phách văn minh văn hiến
của Dân tộc Hồng-Lạc.
Từ khi Trung Cộng lén lút xây dựng các đập thủy diện trên hệ
thống sông ng̣i chảy qua tỉnh Vân Nam vào năm 1971, th́ đại họa cũng bắt
đầu đổ ập một cách âm thầm vào non nước VN, qua cảnh ḍng sông không c̣n
êm đềm chảy, mà dâng cao đục ngầu, mang đầy rác rưởi, gổ tre, khắp nơi
đầy những vực xoáy hung dữ. Năm 1971, mực nước sông Hồng dâng cao tới
14,8 m,gần như lưu lượng nước (80-88%) đổ vào Sơn Tây, trung tâm của
đồng bằng Bắc Việt. Từ năm 1920, bờ đê tại Hà Nội chỉ mới cao 11,5m. Năm
1932 là 13,3m và hiện nay đă cao tới 15-15,5m. Ngoài ra c̣n hy vọng vào
các hồ chứa sông Đà, Lô, Gầm, Chảy và Ba Bể.. để hạ bớt mực nước lụt.
Câu chuyện thần thoại ‘ Sơn Tinh Thủy Tinh ‘ thời Tổ Hùng dựng nước,
được nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp hồi tiền chiến, vẽ lại bằng bức tranh
thơ, đă nói lên cuộc chiến quyết liệt của Dân Tộc Việt,trước thảm nạn
lụt lội và giặc thù truyền kiếp, cả hai đều xuất phát từ nước Tàu. Vậy
mà từ Hồ Chí Minh tới các chóp bu kế tiếp sau này, lúc nào cũng to miệng
bưng bợ Trung Cộng, rằng là đồng chí đồng rận, chủ nghĩa xă hội anh em,
môi hở răng lạnh, sông liên sông núi liền núi.. cho nên VC mới đem không
biết bao nhiêu đất đai biên giới, biển đảo để mà dâng cúng cho quan
thầy,cũng đâu có ǵ lạ.
Đồng bằng sông Cửu Long trái lại bằng phẳng,cho nên trước
đây người dân bản địa có tập quán là cứ sống chung với lủ lụt cho tới
khi nước rút hết, chứ không làm ǵ cả. Ta biết Sông Mekong tuy phát
nguồn tận Tây Tạng và chảy qua các nước Miến Điện, Thái Lan, Lào,
Kampuchia mới vào Nam VN. Quan trọng nhất, là dù phần cuối của sông
Mekong, với tổng diện tích tự nhiên chỉ có 3,9 triệu ha, chiếm 5% toàn
bộ lưu lượng của cả ḍng sông. Trong lúc đó hằng năm,miền tây nam Nam
phần, phải nhận của sông Cửu Long, hơn 460 tỷ nước, cùng 200 triệu tấn
phù sa, tạo nên miền châu thổ ph́ nhiêu sông Tiền, sông Hậu ngày nay.
Lănh thổ VN, chỉ có địa h́nh Nam Phần bằng phẳng, thấp không
có đồi núi nhiều (trừ núi Bà Rá, Bà Đen ở miền Đông-Bắc,Thất Sơn ở biên
giới phía Tây). Nên dù khắp nơi có đầy kênh rạch, sông ng̣i nhưng vào
mùa nước lụt, vẫn không chịu nổi ảnh hưởng của thủy triều và lượng nước
tuôn về từ thượng nguồn, khiến cho ḷng sông không tải kịp nước ra biển,
gây nên hiện tượng úng ngập tràn lan kéo dài hằng tháng.
Trước đây khi ḍng sông Cửu Long chưa bị biến thái v́ các
đập thủy điện trên thượng nguồn tại Trung Cộng, Thái Lan, Lào.. th́ hằng
năm nước ngập, đă mang đến thật nhiều phù sa bồi đắp cho miền châu thổ ,
làm cho Mũi Cà Mau lấn thêm đất ra biển, sông rạch có thêm nhiều tôm cá
và đủ cac loại thủy sản.. Từ năm 1961 tới 1994, miền Tây Nam Phần đă bị
sáu trận lụt lớn, làm ngập 1.828.000 Ha ruộng, kéo dài từ 3-6 thang mới
rút hết nước.
Thật ra vấn đề lụt lội tại Nam Phần, đă được người Pháp quan
tâm từ năm 1926, khi Đông Dương là thuộc địa của thực dân. Qua những hồ
sơ lưu trữ, ta biết tới nay vùng này đă bị 31 lần lụt lội lớn nhỏ. Quan
trọng nhất là năm 1966, vào mùa lụt, nước sông Cửu Long tại Tân Châu lên
tới 5,28m (trước đó mực nước tối đa là 4,6m), đă làm cho toàn thể đồng
bằng miền Tây ch́m ngập trong biển nước. Trước đây người ta thường có
quan niệm về sự lụt lội của Nam phần, là điều phải xăy ra theo chu kỳ
qui định của thiên nhiên trong 4 năm. Đó là những giai đoạn 1937-1940,
1946-1949.
Nhưng giai thoại trên, kể cả lụt lội đem phù sa bồi đắp cho
đồng ruộng, coi như đă chấm dứt từ năm 1980, nguyên do v́ Trung Cộng đă
phá vở gần như tất cả những môi trường thiên nhiên tại thượng nguồn
nhưng VN lại lănh đủ hậu quả, nhưng cứ đem hiệu ứng nhà kính, đă gây ra
sự thay đổi thời tiết, khí hậu, để mà đổ thừa hay che dấu sự thực.
Hiện nay có tới 12 tỉnh thuộc đồng bằng sông Cưu Long, chiếm
diện tích 3,9 triệu Ha nhưng vùng lụt lội hằng năm thường tập trung vào
7 tỉnh đầu nguồn là An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long,
Tiền Giang và Long An. Lụt lội hằng năm, làm cho 1 triệu Ha ruộng bị
ch́m ngập dưới nước sâu trong nhiều tháng, gần 10 triệu đồng bào địa
phượng bị thiệt hại , từ nhân mạng tới vật chất. Lụt bây giờ ngập sâu và
kéo dài hơn trước, lại đến sớm nhưng rút muộn, ảnh hưởng nặng nề tới
nông vụ vốn là chén cơm manh áo bao đời của tầng lớp cư dân miệt vườn.
Mặc khác lụt lớn, làm cho đất đai bị ṃn xói, phá vở các công tŕnh xây
dựng hai bên bờ sông, kể cả đường xá kênh rạch. Riêng trận lụt năm 1996,
làm cho 217 người chết trong đó có tới 162 trẻ nít, gây tổn hại tới 2182
tỳ tiền Hồ.
Sông Mekong khi chảy tới Kampuchia , trong tỉnh Kompong Cham
th́ ḷng sông không đủ sức chuyển vận lưu lượng nước từ thượng nguồn,
nên phần lớn ruộng đất trong vùng cũng bị ngập nước nhiều tháng, từ
tháng 7-12 hằng năm. Nhờ nước tràn bờ nên lưu lượng giảm. Thêm vào đó
tại NamVang, sông Cửu Long có một chi nhánh lớn là sông Tonle Sap, đă
dẫn nước về chứa trong Biển Hồ có thể tích tới 80 tỷ m3.Nước này lại
chảy ngược ra sông chính vào mùa khô.
Cũng tại Kompong Cham, sông Cửu Long lại chia thành hai
nhánh : Nhánh chính tới Neak Luong và chảy vào VN tại Tân Châu gọi là
Tiền Giang. Nhánh Phụ c̣n gọi là sông Bassaac vào Châu Đốc, đó là sông
Hậu và ra Đông Hải bằng chín cửa nhưng nay cửa Ba Lai tại Bến Tre đă bị
cát biển và phù sa bít kín. Tại đầu nguồn, v́ lưu lương nước quá mạnh,
nên ḍng sông thường bị tràn bờ, đă tạo nên vùng nước úng thủy Đồng Tháp
Mười và Khu trũng Tứ Giác Long Xuyên. Ngoài ra vùng này c̣n phải tiếp
nhận một khối lượng nước phèn, hơn 77% từ Kampuchia tràn sang trong mùa
lụt.
Từ năm 1961 tới nay, miền Tây Nam Phần đă bị nhiều trận lụt
rất lớn và thiệt hại, vào các năm 1961-1966-1984-1991-1994 với mực nước
dâng cao từ 4,67m ố 5,28m. Năm 1978 tại Tân Châu, nước lên cao 4,88m làm
87 người chết, gây hư hại 307.000 Ha lúa và 9000 căn nhà. Năm 1994 mực
nước lụt lên tới 5,11m làm chết 407 người, gây tổn thất 283.000 Ha lúa,
2799 căn nhà bị nước cuốn, thiệt hại tới 2284 tỷ tiền Hồ.Năm 1995 lại
lụt, làm 150 người thiệt mạng, cuốn trôi nhiều nhà cửa và ruộng lua.
Nguy cơ trùng trùng nhưng Đảng chẳng những chẳng giải thích
một lời nào về thảm họa v́ đâu nên nổi, trái lai vẫn cứ ru ngủ đồng bào
nạn nhân bằng luận điệu tuyên truyền như Mùa Nước Nổi Hay Sống Chung Với
Lũ.. nhờ đó mà đồng ruộng Miền Nam được kéo dài tuổi trẻ, v́ có sự bồi
đắp của phù sa. Trong khi đó,thực chất gần như đất đai màu mở, cá tôm
thủy sản quư của thiên nhiên ban cho các ḍng sông Hồng Hà, Mekong.. đă
bị chuổi đập lớn nhỏ trên 14 cái, được xây dựng tại Vân Nam giữ lại. Kế
tiếp những ǵ may mắn thoát được, lại bị kẹt ở chuổi đập của Lào-Thái.
Cho nên ngày nay, Kampuchia và VN chỉ c̣n nhận đủ những thứ cặn bă,
trong đó có hơn 80% các quặng, hóa chất.. được thải từ hằng trăm nhà máy
bên Tàu, đổ xuống ḍng nước, tống ra biển, như chúng đă làm trên sông
Dương Tử, mà chính báo chí tại Trung Cộng, vừa to tiếng tố cáo.
Khôi hài nhất là bọn Tàu trắng Á Châu và các nước Tây
Phương, trong cái gọi là Ủy Ban hợp tác và bảo vệ sông Mekong, lúc nào
cũng to miệng về những chuyện trên mây,mục đích vẫn là những dự án đầu
tư kiếm lời, chứ đâu thấy ai nhắc tới hiểm họa, khủng bố mà Trung Cộng
đă gây cho các nước ở hạ nguồn sông Cửu Long.
4- ĐỒNG
RUỘNG MIỀN NAM KÊU CỨU V̀ NẠN XÂM NHẬP NƯỚC MẶN :
Từ năm 1980 tới nay, các sông ng̣i ở VN hầu hết đều biến đổi
kỳ lạ : Mùa mưa th́ tràn nước gây nên lụt lội, trái lại về mùa nắng nước
thiếu gây nên cảnh khô hạn. Tại Nam Phần, chính việc thiếu hụt nước tại
các sông, đă liên quan tới sự tấn công, xâm nhập của nước mặn từ biền
tràn vào sông, trong các đợt thủy triều.
Đă có trên hằng triệu Ha lúa và hoa màu tại các tỉnh hạ
nguồn sông Cửu Long, bị nước mặn xâm nhập khốc liệt, vừa gây tổn hại tới
thu hoạch cũng như làm cho mọi người trước nguy cơ thiếu nước ngọt để ăn
uống,tắm giặt. Đây là thảm họa chỉ mới xăy ra tại Nam Phần từ sau thang
5-1975, hiện tượng nước mặn theo thủy triều chảy sâu vào nội địa các
tỉnh sát biển, nơi cửa sông Cửu Long. Sở dĩ có t́nh trạng trên,v́ ảnh
hưởng của hai yếu tố từ lưu lượng nước tại thượng nguồn và vùng hạ lưu,
cộng thêm lượng nước mưa cũng như sự bốc hơi vào mùa nắng.
Thông thường hằng năm, từ cuối tháng 4-5, nước mặn theo thủy
triều chảy sâu vào nội địa, khiến cho nước ngọt tại các kênh rạch không
c̣n dùng được để mà tưới ruộng lúa và hoa quả, gây nên cảnh hạn hán thất
thu. Theo định luật khoa học, th́ tiêu chuẩn độ mặn cần có trong lượng
nước ngọt để phục vụ cho nông nghiệp là 4%. Trong khi đó nguồn nước lợ
(nước ngọt đă bị nước mặn xâm nhập), độ mặn chỉ có 2% nhưng cũng chỉ để
tưới ruộng tạm thời khi không c̣n một lối thoát nào khác. Nguyên do v́
thứ nước lợ này, chỉ có tác dụng cứu khô ngắn hạn, nếu để lâu, nước bốc
hơi làm cho nồng độ muối trong ruộng tăng lên cao, làm chết hết lúa.
Do phần lớn đồng ruộng ở miền Nam, không có hệ thống bờ
ruộng và kè đê tốt, nên đă lănh đủ sự xâm nhập của nước mặn chảy vào
ruộng,với số lượng bị ảnh hưởng lên tới 1,1 ố 1,3 Ha theo báo cáo của
các cơ sở Nông Nghiệp. Ngoài ra nước mặn c̣n gây tổn hại rất lớn đối với
những đồng bào nuôi các loại thủy sản như tôm, cá , ốc.. để xuất cảng.
Nạn nước mặn xâm nhập đồng ruộng được đánh giá trầm trọng,
bắt đầu từ năm 1977, trên sông Vàm Cỏ Tây và Tiền Giang. Tại đây nước
mặn chảy sâu vào nội địa từ 8-12km, nhiều hơn những năm trước. Trên sông
Vàm Cỏ Tây, nước mặn theo thủy triều vượt qua Tuyên Nhơn về hướng thượng
nguồn hơn 30km và kéo dài tới 10 ngày mới rút. Tại Mỹ Tho, nước mặnvào
sông Tiền ít hơn và chỉ ở lại có 4 ngày. Nhưng v́ nhu cầu nước tuới,
đồng bào đă vô t́nh giúp nước mặn tràn lan nội địa. Những năm 1985-1986,
vùng Tuyên Nhơn-Đồng Tháp, t́nh trạng nước mặn xâm nhập có giảm so với
các năm trước, nhờ con kênh Hồng Ngự mới đào, dẫn nước Vàm Cỏ Tây thông
qua sông Tiền. Bắt đầu từ thập niên 1990 Đồng Tháp Mười được khai thác
triệt để diện tích ruộng lúa, nên lượng nước ngọt dùng để tưới trở thành
thiếu thốn, tạo điều kiện cho nước mặn càng ngày càng dâng cao, xâm lăng
tới tăp vào sâu trong nội địa.
Năm 1993, nước mặn theo sông Vàm Cỏ Tây, lên tới thượng
nguồn và ở lại Tuyên nhơn tới 50 ngày. Trên Tiền Giang, do nhu cầu xữ
dụng quá nhiều nước, nên ranh giới giữa nước ngọt và nước mặn cũng thay
đổi từng năm. Tại Mỹ Tho, nước mặn đă vượt qua vài cây số và nằm lai tới
17 ngày mới rút ra biển. Năm 1998, t́nh trạng trên lại tái diễn một cách
khốc liệt. Nguyên do v́ mùa nước nổi tại đồng bằng sông Cửu Long vào năm
1997, diễn ra thật bất thường, nước từ thượng nguồn đổ về rất ít và rút
đi rất sớm T́nh trạng trên gây ra khô hạn kéo dài, tạo điều kiện để nước
mặn dâng lên cao và ùn ùn kéo vào sông Vàm Cỏ Tây, chảy sâu vào nội địa
tới 15-20km.
Trên sông Tiền, sông Hậu, Cổ Chiên tuy lưu lượng có kém so
với các năm trước, nhưng vẫn c̣n sức mạnh, làm giảm thiểu phần nào sự
xâm nhập của nước mặn, tuy nhiên cũng đă gây thiệt hại cho hơn 200.000
Ha ruộng lúa. Trong khi đó, vùng tứ giác đầu nguồn Long Xuyên và phía
Tây sông Hậu, lại bị ảnh hưởng rất nặng bởi sự xâm nhập của nước mặn,
vào sâu trong nội địa từ 16-20 km và ở lại hơn 3 tháng.
Sự xâm nhập của nước mặn vào các sông ng̣i miền Nam, là
nguyên nhân chính làm các nhà máy đường phải đóng cửa ngưng hoạt động,
v́ nước ngọt từ năm 1999 đă tăng lên 30.000/1m3 tiền Hồ. Từ đây nước mặn
tấn công vào đất liền sớm hơn mấy năm trước. Tóm lại , không riêng ǵ
Tuyên Nhơn, Mỹ Tho.. mà hầu như các tỉnh tại đồng bằng sông Cửu Long như
Vàm Mỹ Hoá (sông Hàm Luông-Bến Tre), Trà Vinh,, An Thuận, Bến Trại, Sóc
Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ.đều bị nước mặn xâm nhập phá hoại tàn khốc và
không có triệu chúng nào, báo hiệu thảm họa trên sẽ ngừng hay chấm dứt.
Thêm vào đó, từ mấy năm nay thời tiết lại thay đổi đột ngột, gió chướng
thổi manh hơn mấy năm trước,dồn nước mặn vào sông nhiều hơn, đồng lúc
thủy triều tại cửa sông hoạt động thêm dữ dội, trong khi lưu lượng ḍng
sông từ thượng nguồn chảy xuống càng lúc càng yếu dần, không đủ triều
cường giữ giới hạn giữa hai con nước như mấy thập niên trước.
Hởi ơi viết chuyện nước mà đau ḷng với nước ‘
‘ Nhớ nước đau ḷng con quốc quốc
Thương nhà mơi miệng cái gia gia
Dừng chân ngoảnh lại trời non nước
Một mảnh t́nh riêng ta với ta ‘
(Bà Huyện Thanh Quan)
Hay ‘ Non
cao đă biết hay chưa
Nước đi ra bể, lại mưa về nguồn ‘
(Tản Đà)
Vẽ hửng hờ và êm ả của gịng sông, vào lúc chiều tà hay khi
trăng treo trên đầu núi, không biết Nguyễn Du tiên sinh sống lại, đứng
trước những thảm họa trên,đang ào ạt trút xuống những gịng nước thân
thương đó, từng phút, từng giây, từng trong hơi thở của nhip sống Dân
Tộc Việt, có c̣n đủ cảm hứng để hạ bút đề thơ :
‘ Buồn
trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai
thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn
trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi
man mác, biết là về đâu ‘ -/-
Xóm Cồn
Hạ Uy Di
Cuối năm 2013 - MƯỜNG GIANG
|
Trần
Gia Phụng: Sách Chiến tranh Việt Nam 1960-1975

Sách giá 25 Mỹ kim, đă có bán ở các hiệu sách. Thêm chi tiết, xin
liên lạc với tác giả qua e-mail: trangiaphung2011@yahoo.com.
|