&&&
LÀM SAO QUÊN ĐƯỢC ?
MƯỜNG GIANG
Ngày 1-5-1975, VC ban hành một bản đồ mới của
nước VN thống nhất, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (lúc
do hải quân Bắc Việt vừa chiếm giữ 6 đảo, khi VNCH mất ), mà chính Hồ
Chí Minh và Phạm Văn Đồng đă giấy trắng mực đen, xác nhận thuộc chủ
quyền của Trung Cộng vào năm 1958. Đây cũng chỉ là một trong nhiều
nguyên cớ, để Tàu vin vào để tấn công hũy diệt VN vào mùa xuân năm 1979.
Thật ra cái được gọi là “ t́nh hữu nghi hay 4 tốt 16 chữ vàng ǵ ǵ đó “
giữa hai đảng đă lung lay từ năm 1967, khi Trung Cộng xuí giục Nam Lào
tấn công Pathet Lào, vốn là chư hàu của Bắc Việt. Rồi từ khi Hồ Chí Minh
qua đời năm 1969, quyền hành lọt vào tay Lê Duẩn, Lê Đức Thọ vốn thân
Nga, lúc đó là kẻ thù không đội trời chung của Trung Cộng, nên sự rạn
nứt của t́nh đồng chí lại càng thêm nứt rạn. Nhưng v́ kẻ thù trước
mặt là Nga-Mỹ vẫn c̣n, v́ vậy hai đảng cố quên bất đồng để hợp tác giai
đoạn.
Nhưng tới khi Mao Trạch Đông thăng hà vào năm
1976, Đặng Tiểu B́nh lên nối ngôi đă chấm dứt sự leo dây của VC từ lâu,
v́ Đặng đă biết rơ VC lúc ấy đang ngả hẳn theo Nga. Nhiều cuộc đụng độ
đă xảy ra tại biên giới Hoa-Việt, mà chủ động luôn luôn do Hồng quân gây
hấn, theo lệnh của Đặng Tiểu B́nh. Đây là một đ̣n hù dọa cũng như áp lực
VC lúc đó đang tiến hành chính sách cải tạo công thương nghiệp, cướp của
và đánh đuổi Hoa Kiều Miền Nam, nhất là tại Sài G̣n-Chợ Lớn, ra biển, về
Tàu.
Giữa lúc t́nh hữu nghi của hai nước căng
thẳng tột độ, th́ Trung Cộng ngang nhiên xua 30.000 hồng quân vào các
tỉnh Luang Namtha, Udom Say, Phong Salay, Luang Prabang và Sầm Nứa, nói
là để bảo vệ công nhân Trung Hoa, đang làm thiết lộ Bắc Lào-Vân Nam.
Nhưng thực chất Trung Cộng muốn uy hiếp Pathet Lào và bao vây biên giới
phía tây bắc của VN. Đây cũng là ư đồ của Tàu, muốn mở một con đường
thông thương từ Vân Nam xuống đất Miên, để tiện tiếp tế cho quân Khmer
đỏ của Polpot lúc đó, đang du kích chiến với bộ đội VN.
Nhưng Hà Nội đă biết rơ ư đồ của Bắc Kinh,
nên đă ra tay trước. Đầu tiên là cùng Pathet Lào kư một hiệp ước quân sự
và biên giới ngày 18-7-1977. Sau đó đem 50.000 quân trấn đóng tại Trung
và Nam Lào, vừa bảo vệ Pathet Lào, cũng như ngăn cản không cho Trung
Cộng vào đất Miên. Sự gây hấn đă trở thành công khai vào năm 1978, khi
Bắc Kinh gọi Hà Nội là ‘ tiểu bá quyền khu vực ‘, c̣n VC th́ bảo Trung
Cộng là ‘ chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán ‘.
Ai cũng biết quan hệ giữa hai đảng cong sản
Việt-Trung, vô cùng gắn bó từ sau năm 1949 khi Mao Trạch Đông chiếm được
toàn cơi Hoa Lục. Từ đó, Trung Cộng coiVC như một chư hầu chống lưng đỡ
đạn cho thiên triều ở phương Nam, nên viện trợ mọi mặt, từ quân sự cho
tới kinh tế, chính trị, ngoại giao. Mục đích để Hồ Chí Minh và đảng cọng
sản có sức mạnh mới chiếm được miền bắc vào năm 1954.
Kế đến cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2
(1960-1975), hầu như nguồn viện trợ quân sự, kinh tế cho Bắc Việt xâm
lăng VNCH, đều của Trung Cộng. Trên đất Bắc, Tàu giúp Hà Nội xây dựng
nhiều công tŕnh nhà máy, đường xá.. Theo tài liệu công bố, tính tới năm
1978, Tàu đă viện trợ cho VC hơn 20 tỷ Mỷ kim. Từ năm 1965-1970, theo
yêu cầu của Hồ Chí Minh, đă có hơn 100.000 quân Trung Cộng sang giúp Bắc
Việt, để xây dựng và pḥng thủ. Đă có cả ngàn lính Tàu chết ở VN trong
cuộc chiến
Sau 1970, nhiều biến chuyển lịch sử đă xảy ra,
nhất là khi HCM chết, làm cho Hà Nội càng ngày càng ngả theo LX. Do nhu
cầu cuộc chiến, VC cần có nhiều quân dụng tối tân như Mig21, tăng 54,55,
hoả tiễn Sam.. để đối đầu với vũ khí Mỹ. Nhưng những thứ này chỉ có Nga
mới có. Trung Cộng biết hết, nhưng vẫn tiếp tục giúp đỡ VC cho tới khi
Hà Nội chiếm được miền Nam. Rồi v́ đầu óc thiển cận, các chóp bu trong
Bắc Bộ Phủ tự coi như các đỉnh cao của loài người, coi thường mạng sống
đồng bào cả nước, lại mù quáng chạy theo chủ thuyết cọng sản đă lỗi thời
và nhất là tôn sùng Liên Xô hơn thần thánh. Từ đó, không cần cảnh giác
về những kẻ thù xung quanh. Như cọp ŕnh mồi suốt ngàn năm qua, nay mới
bắt được thời cơ vàng ṛng. Đó là nguyên nhân chính khiến kẻ thù có cớ
xâm lăng VN vào năm 1979.
Sau tháng 5-1975, VN là nước có dân số đông
thứ 13 trên thế giới. Về quân sự, quân đội CSVN xếp hàng thứ bốn, sau
Trung Cộng, Hoa Kỳ và Liên Sô, đông hơn nhiều lần quân số của sáu nước
ASEAN (Thái, Nam Dương, Phi, Mă, Tân Gia Ba và Brunei) cộng lại. Do sự
đối nghịch của Kampuchia và Trung Cộng, nên dù mang tiếng có ḥa b́nh
sau ngày 30-4-1975, Bắc Bộ Phủ vẫn duy tŕ và tăng cường quân số nhiều
hơn trước, nên chỉ riêng chính qui, đă có từ 700000-1.000.000 người. Về
chiến lược, cả nước chia thành 7 quân khu : I,II,III,IV,V, VII và IX.
Ngoài ra c̣n có quân khu Thủ Đô Hà Nội), Đặc khu Quảng-Ninh và HCM (Sài-G̣n).
Quân Đội vẫn gồm ba binh chủng Hải, Lục và Không quân. Từ sau tháng
4-1975, Lục quân được tổ chức thành bốn quân đoàn lưu động, như các bỉnh
chủng Dù, TQLC và BDQ tổng trừ bị của QLVNCH. Các quân đoàn mang số 1 (Quyết
thắng), II (Hương Giang), III (Tây Nguyên) và IV (Cửu Long). Từ năm 1979
về sau, do t́nh h́nh chiến sự, quân số đă tăng lên tới tám quân đoàn.
Mỗi quân đoàn có quân số chính qui gần 50.000 người, cộng thêm các đơn
vị yểm trợ như thiết giáp, công binh, pháo binh, truyền tin, quân y..
Không kể chiến lợi phẩm thu được của miền Nam (phần lớn đă bán cho Châu
Phi), lúc đó bộ đội CS có trên 1000 thiết giáp T34,54,55,59,62 cộng với
500 xe PT76, nhiều súng đại bác đủ loại, mấy ngàn súng pḥng không, sử
dụng hỏa tiễn Sam. Ngoài lực lượng chính qui Miền tức là quân khu, c̣n
có chủ lực tỉnh như trung đoàn Bắc Thái, Gia Định, Sông Bé, Vàm Cỏ.. Về
lực lượng Dân quân, có tỉnh đội, huyện đội, xă đội.. Lục quân c̣n có các
đơn vị đặc biệt như Đặc Công, Lữ Đoàn 305 Dù, quân đoàn 559 công binh,
sư đoàn 673 cao xạ..
Sau
1975, Hải quân
CS.VN
có hơn 1000 tàu chiến đủ loại, lớn nhỏ, trong số này có nhiều tàu của
VNCH để lại. Hải phận chia thành năm vùng trách nhiệm và các Bộ tư lệnh
vùng đóng tại Hải Pḥng, Vinh, Đà Nẳng, Vũng Tàu và Rạch Giá. HQ gồm hai
Hạm đội : Hàm Tử phụ trách biển bắc (Vịnh Bắc Việt) và Bạch Đằng có
trách nhiệm ở phía nam, tới vịnh Phú Quốc.
Riêng Không quân có quân số chừng 20.000
người. Ngoài số phi cơ A37,F5, vân tải, trực thăng.. của VNCH bỏ lại,
c̣n có các máy bay chiến đấu MIG 21, 23 - trực thăng vơ trang do Liên Xô
viện trợ. Tất cả chừng 1000 chiếc, lập thành các không đoàn oanh tạc,
chiến đấu, vận tải, huấn luyện. BTL/Không quân đóng tại phi trường Bạch
Mai ( Hà Nộ).Năm 1980, quân đội VN có quân số hơn 2 triệu người, đứng
hàng thứ 3 thế giới (Tàu, Nga, VN, Mỹ).
Hồng quân Trung Hoa hay quân đội Trung Cộng
tuy được thành lập vào năm 1927 nhưng thật sự chỉ thống nhất sau năm
1949 khi chiếm được Hoa Lục. Nói chung VC đă theo đúng khuôn mẫu của
Mao, để tổ chức binh đội. C̣n chủ thuyết Mao, được coi như nền tảng tư
tưởng, dùng làm chiến thuật và chiến lược, gọi là chiến tranh nhân dân,
lấy nông thôn bao vây thành thị.
Thời nào, quân đội Tàu cũng đông nhất thế
giới. Năm đó, Hồng quân có hơn 4 triệu người, bao gôm hai binh chủng Hải
và Không Quân trên nửa triệu. Cả nước được chia thành bảy quân khu : Lan
Châu (Tân Cương và Thanh Hải), Bắc Kinh (Nội Mông, Bắc Kinh, Hà Bắc, Sơn
Đông), Trấn Giang (Hắc Long Giang, Liêu Ninh), Kiến An (Hà Nam, Sơn Tây),
Nam kinh (Phúc Kiên, Giang Tây, Thượng Hải, An Huy), Thành Đô (Vân Nam,
Tứ Xuyên, Quư Châu, Tây Tạng) và Quảng Châu (Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ
Bắc, Hồ Nam). Mỗi quân khu có nhiều quân đoàn. Ngoài chính quy và chủ
lực, Trung Cộng c̣n có hơn bảy triệu dân quân. Tất cả do Chủ tịch quân
ủy trung ương , tức là chủ tịch đảng lănh đạo, khi Đặng nắm quyền kiêm
nhiệm luôn chức này.
Năm 1979, Hà Nội sau khi bị Trung Cộng tố cáo
là vong ơn bạc nghĩa, kể cả sự phanh phui Vơ Nguyên Giáp không phải là
người chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ năm 1954. Để trà đũa, VC cho phổ
biến bạch thư, nói về quan hệ Việt-Trung trong 30 năm qua, đồng thời tố
cáo Hoa Kiều trong nước là gián điệp, tay sai của Trung Cộng chống lại
VN. Tiếp theo VC xua quân tấn công tiêu diệt Polpot và Khmer đỏ , vốn là
đàn em chư hầu của Tàu, khiên cho dầu được đổ thêm vào lửa chiến tranh
giữa hai nước, chỉ chờ bùng nổ.
Tại miền Nam, ngày 24-3-1978 bắt đầu đánh tư
bản. Hằng ngàn công an, bộ đội và nam nữ thanh niên xung phong đeo băng
đỏ trên tay, rải khắp các đường phố Sài G̣n-Chợ Lớn, Gia Đ́nh, xông vào
các hăng xường, nhà buôn, tư gia.. những người có máu mặt Hoa lẫn Việt,
để lục lọi, vơ vết, xoi khám tịch thu tiền bạc, đô la, vàng ngọc, hàng
hóa và tất cả tài sản riêng tư của dân chúng, những ai bị đảng kết tội
là mại sản. Theo tài liệu được bật mí, chỉ riêng mẻ lưới trên, Hà Nội đă
vơ vét của người giàu Sài G̣n cả tỷ đô la Mỹ và vàng ṛng kim cương..
Ngày 3-5-1978, cả nước lại bị đổi tiền lần
thứ ba, khiến đồng bào trước sau trở thành vô sản chuyên chính. Ở miền
Bắc, hằng ngàn Hoa Kiều bị trục xuất về nước. Trong Nam, hằng vạn người
Hoa trắng tay, tiêu tan sản nghiệp, b́ đầy ải lên vùng kinh tế mới tận
B́nh-Phước Long, B́nh Tuy, Long Khánh, Bà Rịa.
Để trả đũa, Trung Cộng ngưng hẳn 72 công
tŕnh xây dựng viện trợ cho VN. Đă có 70.000 người Hoa tại VN hồi hương
về Hoa Lục. Ngày 16-5-1978, Trung Cộng tuyên bố gửi hai chiến hạm tới
Hải Pḥng và Sài G̣n, để đón hết Hoa kiều. Nhưng đây chỉ là đ̣n tuyên
truyền chính trị, v́ tàu chiến chỉ đậu ngoài khơi một ngày, rồi kéo neo
về nước. Nắm được yếu điểm của đàn anh, VC lần chót hốt hết những ǵ c̣n
sót lại của Hoa Kiều, qua chiến dịch ‘ xuất cảng người ‘.Sau đó tống khứ
họ ra khơi, khiến cho hơn triệu người bị chết v́ sóng gió và hải tặc
Thái Lan trên biển Đông, mà những trang Việt sử cận đại, gọi là cơn hồng
thủy của thế kỷ.
Sau khi VN bỏ lỡ cơ hội nối lại bang giao với
Hoa Kỳ. Ngày 24-5-1978, phụ tá an ninh của tổng thống Mỹ Carter là
Brezinski, tới Bắc Kinh kư một hiệp ước liên minh quân sự với Tàu. Từ đó
Đặng Tiểu B́nh đă có chỗ dựa chống Nga, nên mới ra mặt quyết tâm xâm
lăng VN để rửa thù phục hận.
Từ 28 tới 30-1-1979, Carter và Đặng Tiểu B́nh
đă họp mật tại Ṭa Bạch Ốc. Sau đó tổng thống Mỹ đồng ư để Trung Cộng
trừng phạt VN và c̣n giúp cầm chân Nga, bằng cách chịu kư với LX hiệp
ứơc SALT II. Để thêm kế nghi binh, Hoa Kỳ cử bộ trưởng tài chánh là
Blumenthal tới công tác tại Bắc Kinh. Ngoài ra c̣n cho Hàng không mẫu
hạm Constellation lảng vảng ngoài khơi vịnh Bắc Việt. Tất cả mơ mơ màng
màng, khiến cho LX cũng không biết đâu mà ṃ.
Ngày thứ bảy 17-2-1979, lúc 3 giờ 30 sáng,
khi vạn vật, chim chóc và con người đang chuẩn bị cho một ngày sống mới,
th́ 600.000 quân Tàu, tiền pháo hậu xung, ào ạt mở cuộc xâm lăng đại quy
mô vào VN, trên vùng biên giới từ Lai Châu tới Móng Cáy. Thế là t́nh
nghĩa vô sản quốc tế trong sáng giữa hai nước, đă trở thành hận thù
thiên cổ. Những địa danh Cao Bằng, Lạng Sơn, Đồng Khê, Thất Khê.. lại đi
vào những trang Việt sử đẫm máu, của VN chống xâm lăng Tàu.
Để tấn công VN, Trung Cộng đă huy động nhiều
quân đoàn từ nhiều quân khu khác nhau, gồm QD 13,14 tấn công Lai
Châu-Lào Kay. Hai QĐ 41,42 tân công Cao Bằng. Riêng mạn Lạng Sơn, Quảng
Yên, Hải Ninh thi giao cho quân đoàn 43,54,55. Tất cả do Hứa Thế Hữu và
Dương Đắc Chí chỉ huy trong mấy ngày đầu.
Về phía VN, một phần v́ sự tự cao bách thắng
của các đỉnh cao tại bắc bộ phủ. Phần khác do quá tin tưởng sự liên minh
quân sự với LX. Nên gần như sử dụng gần hết các đơn vị chính quy tại mặt
trận Kampuchia. Bởi vậy ngay khi cuộc chiến bắt đầu, trong lúc quân
Trung Cộng đông đảo lên tới 150.000 chính quy, th́ việc pḥng thủ miền
bắc, nhất là thủ đô Hà Nội, được giao cho các Sư Đoàn 308,312,390 của
quân khu I. Nói chung, trong cuộc chiến đấu với Trung Cộng tại biến giới,
chỉ có các sư đoàn chủ lực của quân khu tham dự như Sư đoàn 3,327, 337,
Tây Sơn ( mặt trận Lạng Sơn). SD 567, B46, SD.Pháo binh 66 (mặt trận Cao
Bằng). Các tuyến từ Hà Giang tới Lai Châu, do các SD316,345, Đoàn B68,
M63, các trung đoàn chủ lực tỉnh, huyện đội, công an biên pḥng. Sau đó
khi thấy t́nh h́nh quá nguy ngập, Hà Nội mới gấp rút điều động các trung
đoàn từ các tỉnh trung châu, cùng với các sư đoàn chủ lực của quân khu
II và IV từ Kampuchia về tiếp viện.
Cuộc chiến thật đẫm máu ngay từ giờ phút đầu.
Quân Tàu dùng chiến thuật cổ điển thí quân với tiền pháo hậu xung, bằng
các loại hỏa tiễn 122 ly và đại bác ṇng dài 130 ly, với nhịp độ tác xạ
1 giây, 1 trái đạn. Sau đó Hồng quân tràn qua biên giới như nước lũ từ
trên cao đổ xuống. Tuy nhiên khắp nơi, Trung Cộng đă gặp phải sức kháng
cự mănh liệt của VN, một phần nhờ địa thế pḥng thủ hiểm trở, phần khác
là sự yểm trợ hùng hậu của pháo binh các loại, gây cho giặc Tàu nhiều
tổn thất về nhân mạng tại Lạng Sơn và Cao Bằng.
Sự thất bại trong những ngày đầu, khiến Đặng
giao chỉ huy mặt trận cho Dương Đắc Chí, đồng thời cũng thay đổi chiến
thuật, dùng tăng pháo mở đường và bộ binh tùng thiết. Do quân Tàu quá
đông, nên sau 10 ngày cầm cự, bốn thị xă Lai Châu, Lào Kay, Hà Giang,
Cao Bằng lần lượt bị thất thủ. Riêng tại thị xă Lạng Sơn, Trung Cộng
tung vào chiến trường tới sáu sư đoàn chính quy 127,129, 160,161,
163,164 cùng hằng trăm thiết giáp và đại pháo từ khắp nới bắn vào yểm
trợ. Phía VN có quân đoàn 14 gồm các SD 3,327,338,347,337 và 308. Trong
lúc đó hai SD chính quy 304 và 325 từ Kampuchia, cũng đựợc không vận và
di chuyển bằng xe lửa, tới Lạng Sơn tiếp viện. Nhưng cuối cùng Lạng Sơn
cũng bị thất thủ đêm 4-3-1979. Sau đó giặc Tàu dùng ḿn, bom phá nát hết
các thành phố, thị xă tạm chiếm, kể cả hang Pắc Pó, suối Lê Nin và núi
Các-Mác mà Hồ Chí Minh từng tạm trú, trước khi về Hà Nội cướp chính
quyền vào tháng 9-1945. Ngày 16-3-1979, Đặng Tiểu B́nh ra lệnh rút quân
về nước.
Tóm lại sau 16 ngày giao tranh đẫm máu, Trung
Cộng cũng như Khmer đỏ, tàn phá tất cả tài sản của dân chúng, bắn giết
tận tuyệt người VN, san bằng các tỉnh biên giới, mà suốt cuộc chến Đông
Dương lần II (1960-1975), gọi là vùng an toàn. Đă có hằng trăm ngàn vừa
dân vừa lính của cả hai phía thương vong. Tại miền bắc, hằng triệu dân
chúng phải phân ly. Nhà cửa, vườn ruộng, của cải vật chất, đền đài, miếu
vơ, nhà thờ, di tích tổ tiên bao đời để lại.. đều v́ VC gây chiến tranh,
mà tan tành theo cát bụi.
+ Trung Cộng Xâm Lăng VN lần thứ hai (1984-1989) :
Cuộc chiến tưởng đâu đă chấm dứt, v́ VC dấu nhẹm tin tức,
từ ấy cho đến năm 2006, th́ mạng lưới Internet của Bộ Quốc Pḥng Trung
Cộng (Defense-China.com) và tác phẩm Dữ kiện, đả phanh phui bí mật của
cuộc chiến tranh Trung-Việt (Secret Records of Sino-Vietnamese War) của
Jin Hui, Zhang Hui Sheng và Zhang WEi Ming. Nhờ vậy cả thế giới biết
được ‘ Bí Mật Lịch Sử về việc Tàu chiếm Núi Đất của VN, trong cuộc chiến
biên giới lần hai (1984-1989) ‘.Theo tài liệu dẫn chứng, năm 1984 Trung
Cộng lại vin cớ CSVN thường pháo kích và tấn công biên giới, nên bất
thần tấn công cưởng chiếm Núi Đất của VN tại tỉnh Hà Giang (Thượng Du
Bắc Phần), mở màn cho cuộc chiến Biên Giới Việt Hoa lần thứ hai, kéo dài
từ năm 1984-1989 mới chấm dứt, do Việt Cộng tự bỏ đất rút quân, nhượng
bán (?)lănh thổ cho giặc Tàu.
Núi Đất (VN) hay Lăo Sơn (Tàu), dù có gọi
bằng cái tên ǵ chăng nữa, cũng vẫn là một ngọn núi của VN, tại xă Thanh
Thủy , huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Trong trận chiến đẳm máu này, hai
bên đă dành giựt quyền kiểm soát cứ điểm 1509m, được coi như là một vị
trí chiến lược rất quan trọng về phía VN, được cũng cố xây dựng từ sau
cuộc chiến biên gới 1979.
Thế là ngày 28-4-1984, vào lúc 5 giờ 50 sáng,
Trung đoàn 118, Sư đoàn 40 BB, thuộc Quân đoàn 14, Quân khu Côn Minh,
tiền pháo hậu xung, đồng loạt tấn công đỉnh 1509 và các cứ điểm quan
trọng khác của VN. Cuộc chiến thật gay go v́ gặp sự kháng cự mănh liệt
của quân pḥng ngự VN, cấp đại đội. Tất cả đă tử chiến trước quân thù,
đặc biệt trong số này có 4 nữ cán binh CSVN, thà chịu chết trước súng
phun lửa của giặc Tàu, chứ không đầu hàng. V́ vậy nên trận chién kéo dài
tới 15 giờ 30 chiều mới kết thúc, giặc bỏ xác tại chỗ 198 tên, cùng một
số khác bị thương nặng..
Ngày 11-6-1984 , một Tiểu đoàn CSVN tấn công
tái chiếm núi nhưng bị đẩy lui. Ngày 12-7-1984, hai bên đụng độ lớn cấp
Sừ đoàn. Phía CSVN đă huy động tới 6 Trung đoàn Bộ binh của các
SĐ312,313, 316 và 356 để tái chiếm đỉnh núi. Cuối cùng Trung đoàn 982
thuộc Sư đoàn 313 CSVN, đă tái chiếm được cứ điểm 1509, sau khi đă chịu
tổn thất hơn 3700 người. Nhưng sau đó không biết v́ lư do ǵ, chóp bu Hà
Nội đă ra lệnh bỏ ngơ cứ điểm trên cho quân Trung Cộng tới tái chiếm.Rồi
lại giành giật từ 1984-1987 ở cấp Đại đội, cho tới ngày 13-2-1991 th́
châm dứt với kết quả : Trung Cộng hoàn toàn chiếm lĩnh Núi Đất nằm trong
lănh thổ VN tại Tỉnh Hà Giang, và đổi lại tên Tàu là Lăo Sơn.
Tính ra, từ ngày Hồ
Chí Minh và Đảng CSQT chiếm được nữa nước VN, qua Hội Nghị Genève 1954,
sau đó cưởng chiếm Miền Nam ngày 30-4-1975 và cai trị cả nước tới nay,
chỉ hơn nữa thế kỷ (1955-2014), đă bán hay nhượng cho Tàu hai quần Đảo
Hoàng Sa-Trường Sa, nhiều đất đai tai biên giới Hoa Việt, trong đó có Ải
Nam Quan, Thac Bản Giốc, Hang Pắc Pó, Núi Đất và nhiều vùng đánh cá
thuộc lănh hải của VN. Tất cả hành động bán nước trên đều mờ ám, bịp lừa,
mục đích cũng chỉ để che dấu mọi tội lỗi, hầu tiếp tục kéo dài sự thống
trị của tập đoàn thực dân đỏ tham nhũng, bất tài nhưng trong tay nắm đủ
quyền lực, tiền bạc và trên hết đă sai khiến được một thiểu số trí thức
khoa bảng mù quáng hám danh, đang cố sức quậy bùn công cuộc chiến đấu
quang phục đất nước của Người Việt Tị Nạn Hải Ngoại và Đồng bào quốc nội.
Sau khi cưởng chiếm đuợc cả nước VN, CSQT bỏ
Tàu theo Nga, gây nên một cuộc chiến long trời lở đất với Miên và Trung
Cộng, cuối cùng cắt đất dâng biển đảo của VN cho Tàu để xin được làm tôi
tớ của thiên triều như cũ. Bài học của lịch sử chưa khô máu trên thân
thể mẹ VN nhược tiểu , th́ một cuộc chiến đẳm máu khác đă thấy ló dạng,
qua cuộc cờ ‘ đội Tàu, bợ Mỹ, liếm trôn Nga ‘. Bao nhiêu lời
tuyên bố hứa hẹn của Mỹ về Biển Đông, về chủ quyền của VN và các nước
Đông Nam Á có liên quan tới sự xâm lăng lănh thổ của Trung Cộng. Nhưng
đó chẳng qua cũng chỉ là bọt mép, không hề làm Tàu đỏ nao núng bằng việc
chính Nhật đă phản ứng dữ dội khi giặc Tàu xâm chiếm lănh hải của họ. Đó
mới là biện pháp hữu hiệu nhất của các nước ‘ tự ḿnh bảo vệ chính ḿnh
‘.
Lần trước Trung Cộng chỉ mới tàn phá được
miền thượng du Bắc Việt bằng súng đạn cổ điển. Lần này nếu lại có chiến
tranh, Trung Cộng với bản chất man rợ và khát máu, chắc chắn giặc sẽ tận
dụng hết khả năng quân sự trong đó có bom nguyên tử để xoa sổ VN trên
bản đồ Châu Á. Sự tổn thất về nhân mạng và tồn vong của dân tộc chỉ có
người dân cùng đất nước hứng chịu, c̣n đảng với gia đ́nh của những tên
chóp bu, chắc chắn đă cao bay xa chạy tới những khung trời hạnh phúc ở
hải ngoại mà thiên đướng đâu có nơi nào sánh bằng Hoa Kỳ với tiền núi
vàng tấn đă được chuyển tới đây từ khuya.
Nên cuối cùng chỉ c̣n một con đường duy nhất
mà bất cứ ai nắm vận mệnh của dân tộc VN đều phải tuân thủ : Đó là phải
làm theo ư nguyện của đồng bào cả nước đang khao khát có tự do, dân chủ
và chén cơm manh áo trong cuộc sống hằng ngày. Được như vậy, nhà cầm
quyền mơi mong DOÀN KẾT SỨC MẠNH DÂN TỘC để chống lại cuộc xâm lăng của
Trung Cộng đang diễn ra trên quê hương VN từng giờ từng ngày, chứ không
phải cứ chạy theo Nga, Tàu, Mỹ, Nhật.. lẩn quẩn loay hoay trong ṿng nô
lệ rốt cục cũng vẫn làm nô lệ cho ngoại bang mà thôi
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 1-2014
MƯỜNG GIANG
|
Trần
Gia Phụng: Sách Chiến tranh Việt Nam 1960-1975

Sách giá 25 Mỹ kim, đă có bán ở các hiệu sách. Thêm chi tiết, xin
liên lạc với tác giả qua e-mail: trangiaphung2011@yahoo.com.
|