&&&
MÁU VÀ
NƯỚC MẮT CỦA QLVNCH TRÊN ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN
TRONG
CHIẾN CUỘC ĐÔNG DƯƠNG 1955-1975
MƯỜNG
GIANG
Một năm sau ngày miền Nam bị cưởng chiếm, phái đoàn Bắc Việt
do Trường Chinh đại diện và Đảng Bộ Việt Cộng miền Nam tức Mặt Trận Giải
Phóng MN, dưới quyền Phạm Hùng, đă chính thức họp tại Sài G̣n, để khai
tử cái Mặt Trận “ MA “, được Hà Nội dàn dựng và khai sinh từ ngày
20-12-1960, nhằm lường gạt dư luận thế giới và dân chúng trong nước, qua
âm mưu thôn tính VNCH. Cũng từ đó (1976), cái gọi là con đường huyền
thoại Hồ Chí Minh, tức đường ṃn Trường Sơn với bí danh 559A, hành lang
để Hà Nội chuyển tiếp liệu, quân dụng và người vào Nam, từ năm 1959 tới
ngày 30-4-1975, cũng bị đảng nhận ch́m trong quên lăng.
Bắt đầu từ năm 1989 tới 1991, đă có nhiều biến cố chính trị
quan trọng xảy ra tại Đông Âu. Đó là việc các nước chư hầu, lần lượt từ
bỏ xă hội chủ nghĩa, kéo theo sự sụp đổ và tan ră của Liên Bang Sô Viết.
Để cứu đảng khi đă mất cái dù che của Nga, Việt Cộng lại ngả về Tàu,
đồng thời mở khẩu đổi mới, trải thảm đỏ, mời Hoa Kỳ, Nhật và Tây Phương
vào làm ăn buôn bán. Nhờ vậy lớp son phấn che kín bản mặt thật của đảng,
dần hồi bị xói ṃn, bởi các tệ trạng tham nhũng, cướp bóc nơi cửa quyền
và nhất là sự kiện đảng công khai bán nước cho ngoại bang, hèn nhục để
cho dân ḿnh bị Tàu Cộng bắn giết trên biển vào tháng 1-2005, đă làm cho
cả nước không c̣n hăi sợ và tin Việt Cộng, kể cả một số không ít trí
thức khoa bảng NamVN trước đây, từng tin đảng là chính nghĩa, làm cách
mạng chỉ để giải phóng đất nước bị Mỹ-Ngụy kềm kẹp bóc lột.
Để bảo vệ đảng cũng như quyền lợi của chóp bu đang hồi tiến
nhanh tiến mạnh, Hà Nội lai lùi một bước, quay về với chiến lược cũ rích
năm nào. Đó là dùng lịch sử để lường gạt đồng bào và Việt kiều thêm lần
nửa. Đảng đem những huyền thoại trên trời dưới biển năm nao, ra hâm nóng
lại tinh thần yêu nước là “ yêu nước xă hội chủ nghĩa “của cán bộ đảng
viên, đang bị phân hoá lung lay niềm tin tới tận gốc, v́ dành ăn, tranh
quyền và ganh tị lẫn nhau bởi “ trâu cột ghét trâu ăn “.Ngoài ra, đảng
cho trùng tu lại các di tích chiến tranh, như Địa đạo Vĩnh Mốc (Vĩnh
Linh-Quảng Trị), Củ Chi (Hậu Nghĩa), cũng như tái tạo lại con đường ṃn
Hồ Chí Minh. Công tác trên vừa có tính cách xoa dịu tự ái của những đảng
vỉên bộ đội già bị vắt chanh bỏ vơ, sau khi tàn chinh chiến. Đồng thời
lần nữa lừa bịp cũng như móc túi bọn du khách ngoại quốc, trong đó có
không ít Việt Kiều trí thức Miền Nam ngày xưa trốn quân dịch, nên có bao
giờ biết cũng như nếm được mùi chiến tranh bom đạn, và đám da trắng giàu
có đa sự. Bọn này rất muốn biết và nh́n tận mắt con đường mà Hoa Kỳ, nói
là đă oanh tạc một số bom đạn, nhiều hơn số lượng đă xử dụng trong thời
đệ nhi thế chiến nhưng vẫn không ngăn nổi người và quân dụng Bắc Việt
vào Nam.
Việc đẻ ra kế hoạch “ mười năm du lịch “ 1995-2005 “ của Vơ
văn Kiệt tại nghị định số 307 ngày 24-5-1995, cũng là một trong những sự
sao y bản chánh của Trung Cộng, v́ thấy Đặng tiểu B́nh đă thành công,
khi xây dựng các khu du lịch và công nghiệp tại Thẩm Quyến, Hải Nam,
Thượng Hải.. Từ đó Hà Nội đă bất chấp thực tế, vẫn hồng hơn chuyên, bỏ
hằng tỷ bạc ngân sách quốc gia, để xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất và
thành phố Vạn Tưởng, tại Quảng Tín-Quảng Ngăi, trước sự mai mỉa cười chê
của thế giới. Khắp nước nơi nào cũng tổ chức các tour du lịch, để hốt
bạc và tuyên truyền bộ mặt son phấn mới của VN xă nghĩa. Ngay chốn khỉ
ho c̣ gáy như miền giới tuyến năm nào trong tỉnh Quảng Trị, cũng có một
tour du lịch, từ Cửa Việt lên tới Khe Sanh, Tà Cơn, Cầu Treo DakRong,
ngă ba QL9 và đường ṃn HCM, gọi là The Demilitarized zone tour, thường
viết tắt là D.M.Z. Mục đích để đảng quảng cáo các chiến lợi phẩm thời
chiến tranh và cái gọi là nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, mà theo thân
nhân của người quá cố, trong ḥm chỉ có cát-đất, xương thú vật mà thôi.
Có đọc trường thiên kư sự “ Đường đi không tới “ của nhà văn
VC hồi chánh là Xuân Vũ, hay đă làm lính VNCH, mới cảm nhận được cái ư
vị khổ nhục cùng tận của cuộc chiến Đông Dương lần 2 (1955-1975), do Đệ
tam quốc tế cọng sản chủ xướng, qua vai tṛ tên lính tiền phương đánh
mướn là Việt Cộng. Trong cuộc chiến vô nghĩa phi lư này, mặt trận tại
Trường Sơn, đă là mồ chôn hằng vạn tử sĩ của cả hai phía. Những địa danh
như Dốc pháo cụt, Đồi không tên, Sông A-Vương, Lũng Giằng, Khe Sanh,
Dakto, A-Shau, Ia-Drang, Pleime, Đức Cơ.. ra tận miền Bắc, càng lúc càng
trở nên khốc liệt, khi nó chính thức trở thành con đường chiến lược để
Bắc Việt xâm lăng VNCH. Suốt thời gian chiến tranh, Vơ Nguyên Giáp qua
tư cách Đại Tướng tổng tư lệnh quân đội VC, đă từng tuyên bố với báo chí
quốc tế, là hắn sẽ đốt rụi Trường Sơn, dù phải đem giết hết thanh niên
nam nữ miền bắc. Cho nên không lạ khi thấy Xuân Vũ nói “ mạng người lá
rụng “, để viết về thảm kịch Đường Đi Không Tới, của một số cán binh bộ
đội hồi kết năm nào.
Tháng 11-1997, Vơ nguyên Giáp khoe thành tích Bát Quái Đồ,
tức là đường Trường Sơn 559, do Đinh Đức Thiện và Đồng Sĩ Nguyên lần
lượt chỉ huy suốt cuộc chiến từ 1960-1975. Ngày xưa thế giới đui mù v́
bị bọn trí thức khoa bảng, cha-sư miền Nam tuyên truyền lật lọng, nên
chẳng bao giờ thấy được h́nh ảnh bộ đội cọng sản “ sinh bắc tử nam “,
khi ồ ạt vượt vĩ tuyến 17, vào đường ṃn HCM, để tấn công cưỡng chiếm
Miền Nam thanh b́nh no ấm, như họ đă thấy tại bán đảo Triều Tiên, vào
tháng 6-1950, qua cuộc chiến Cao Ly. Nhưng biết sớm hay muộn cũng giống
nhau, v́ ngày nay trên khắp nẻo đường Trường Sơn năm củ, từ Bắc Việt vào
tới Phước-B́nh Long, hằng ngày đă có hằng vạn nguời Việt , đói rách bị
chĩa súng có gắn mă tấu sau lưng, để bắt họ làm nghĩa vụ lao động. Cũng
qua cái h́nh ảnh đau thương này, đă làm cho mọi người trong cuộc của cả
hai phía, chợt nhớ tới những cô gái Trường Sơn năm nào, luôn mỏi ngóng
các chàng lính trận có lần đă đi vào con tim của họ. Để rồi từ đó tới
nay, tuổi xuân tháp cánh lưng trời, mà bóng ai vẫn biền biệt, như cái
huyền thoại Trường Sơn, thật sự đă chết trong tâm tư đồng bào sơn cước,
khi họ bị VC cướp đất, lừa bịp.. sau khi đất nước đă có ḥa b́nh.
“ mai về quê mẹ, lên biên giới
thăm lại Trường Sơn thuở kiếm cung
rừng núi vẫn xanh màu khát vọng
chỉ ta hờn tủi, kiếp tha hương ..”
1- Bối
cảnh lịch sử có liên quan tới chiến cuộc Đông Dương lần thứ 2
(1955-1975):
Ngày 7-5-1954 Điện Biên Phủ thất thủ, nước VN tạm thời bị
chia cắt thành 2 miền riêng biệt, với 2 thể chê khác nhau, do cái gọi là
tứ cường Liên Xô, Anh, Pháp và Trung Cộng tự ư quyết định số phận của
đất nước và dân tộc VN, tại bàn hội nghị Genève ( Thụy Sĩ ).
Hoa Kỳ
lúc đó là đồng chủ tịch nhưng v́ một lư do ǵ đó, nên không kư vào biên
bản. Từ đó, Bắc Việt do Hồ Chí Minh lănh đạo, công khai theo chế độ cọng
sản và là chư hầu của Nga-Tàu. Miền Nam chọn chính thể Cọng Ḥa. Hai
miền VN lấy vĩ tuyến 17, cũng là con sông Bến Hải, tỉnh Quảng Trị, làm
ranh giới tạm chia. Theo tinh thần hiệp ước đ́nh chiến, quân viễn chinh
Pháp phải rút hết về nước, c̣n VC trong mặt trận Việt Minh tại miền Nam,
cũng phải tập kết ra bắc.
Từ khi chính thức làm trùm nửa nước, Hồ Chí Minh và đảng VC,
theo chân Mao Trạch Đông, phóng tay phát động phong trào cải cách ruộng
đất năm 1956, làm cho hằng vạn người dân vô tội tại miền bắc, bị đấu tố
chết thảm thương, trong số này hầu hết đều có công với nước hay với đảng
trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Nội vụ được giấu kín hay được bọn
trí thức khoa bảng da trắng thân cộng như G.Kolko, tác giả quyển “ VN
Anatomy of wars 1940-1975 “ tuyên truyền hoàn toàn trái ngược với sự
thật. Trong khi đó, t́nh h́nh chính trị của miền Nam từ A - Z, bị bọn
trí thức thân cộng trong và ngoài nước, moi móc, bịa đặt đủ điều vơí mục
đích làm mất chính nghĩa quốc gia của người miền Nam, trong lúc đang
chiến đấu chống lại sự xâm lăng của cọng sản đệ tam quốc tế .
Tại VNCH, những năm đầu tiên, TT Ngô Đ́nh Diệm đă gặp rất
nhiều khó khăn , trong việc đương đầu với với các Giáo phái và lực lượng
B́nh Xuyên. Lợi dụng giậu đổ b́m leo, VC nằm vùng tại miền Nam đă phát
động các cuộc nổi loạn vơ trang, gọi là đồng khởi tại Trà Bồng (Quảng
Ngăi), Bắc Ruộng (B́nh Thuận) và Mơ Cầy (Bến Tre), song song với các vụ
khủng bố, ám sát đồng bào và viên chức xă ấp khắp nơi nhưng cuối cùng
mọi hành động phá rối của VC đều thất bại. Theo hầu hết các nguồn sử
liệu c̣n lưu trữ, cho biết t́nh h́nh chính trị tại VNCH, vào những năm
1956,1957, 1958 rất khả quan từ Sài G̣n cũng như các tỉnh, nơi thị tứ
cho tới chốn quê làng, đâu cũng vui sống cảnh thanh b́nh no cơm áo ấm.
Nhờ vậy TT Ngô Đ́nh Diệm cũng như Chính Phủ Miền Nam, lúc đó đă gây được
uy tín rất lớn trên thế giới.
Trước t́nh h́nh nguy ngập đó, Hồ Chí Minh đă phải gọi Lê
Duẩn, lúc đó đang làm xứ bộ trưởng, chỉ huy cán bộ nằm vùng tại miền
Nam, trở ra Bắc, để duyệt xét lại kế hoạch cưỡng chiếm VNCH bằng vũ lực,
thay v́ kỳ vọng vào cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước như Hiệp định
Geneve 1954 đă qui định, mà VNCH không chịu thi hành, v́ không hề kư vào
biên bản hiệp ước trên. Trong phiên họp lần thứ 15 của Bộ Chính Trị
Trung Ương Đảng, khai diễn ở Hà Nội vào tháng 1-1959, quyết định thành
lập Lực Lượng Vũ Trang tại Miền Nam. Kế tiếp ngày 5-10-1960, đảng lại
họp Đại Hội 3 cũng tại Hà Nội, để thành lập Đảng Bộ cọng sản Miền Nam,
qua danh xưng “ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam “,làm cánh tay nối dài, vừa
là b́nh phong, vừa tạo công cụ xâm lăng cho Bắc Việt. Đúng như Lê Duẩn
đă tuyên bố “ Đó là chiến lược bảo đảm thắng lợi hoàn toàn cho cuộc
cưỡng chiếm miền Nam, dưới sự lănh đạo của đảng Mác-Lê và giai cấp công
nông “.Tóm lại theo chủ trương của Hà Nội, Đảng Bộ CS miền Nam, tức
MTGPMN , phải hành động theo ba mục tiêu chiến lược : 1- Ly gián đồng
bào và chính quyền VNCH 2- Đánh lừa dư luận thế giới về cuộc xâm lăng
của miền Bắc, trở thành cuộc nội chiến tại miền Nam . 3- Tuyệt đối phải
tuân theo các chỉ thị của đảng, do miền Bắc lănh đạo, Mặt trận miền Nam
chỉ thừa hành, theo đúng chính sách đề cương trong khối xă hội chủ nghĩa
quốc tế.
Nên tới nay, dù được gọi bằng danh từ ǵ chăng nửa như Cục
R, Đảng bộ CS Miền Nam, Mặt Trận GPMN.. th́ cũng chỉ là “ Mặt trận mốc
x́, đảng ta đó “ qua lời tuyên bố trơ trẽn của Lê Đức Thọ tại Ba Lê, sau
khi vừa kư xong với Kissinger trên tờ hiệp định ngưng bắn năm 1973.
MTGPMN được hợp thức hóa vào cuối tháng 12-1960 tại một căn cứ của VC,
nằm cách biên giới Việt-Miên chừng 7km. Đây là khu rừng già nằm kế cầu
Cần Đăng, trên con đường đá đỏ Trà Băng, Trại Bí, Xóm Mới, Sóc Ông
Trang.. thuộc tỉnh Tây Ninh. Buổi lễ được đặt dưới quyền chủ tọa của Sáu
Vi,bí danh của đại tướng Nguyễn Chí Thanh, ủy viên bộ chính trị, bí thư
trung ương đảng, nguyên phụ trách vấn đề nông dân và thanh niên miền
bắc. Mặt trận có mười nhân vật khoa bảng miền Nam, đang đối lập chính
trị với VNCH, gồm Nguyễn Hữu Thọ (đang bị giam tại Cũng Sơn-Phú Yên, v́
tội hiếp dâm, dược VC giải thoát ), Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa,
Phùng văn Cung, Ưng văn Kỳ.. Bọn này hầu hết thuộc thành phần địa chủ,
phú gia thời Pháp thuộc, được VC nằm vùng là Huỳnh tấn Phát móc nối dụ
dỗ. Tất cả được Hà Nội đem ra làm bung xung che mắt thiên hạ nhưng đầu
năo lănh đạo, vẫn do Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Trần văn Trà,
Nguyễn Chí Thanh.. quyết định theo đúng chính sách của Hà Nội đă nghị
quyết. Cũng từ đó, Nguyễn Hữu Thọ được phong hàm chủ tịch Mặt Trận, mở
đầu cuộc chiến xâm lăng Miền Nam bằng vũ lực. Tại Miền bắc, Hồ Chí Minh
ban lệnh hồi kết, hàng chục ngàn cán binh bộ đội trở về Nam, để thành
lập “ Quân Giải Phóng “ do Trần Văn Trà làm tư lệnh. Một số lớn Hoa kiều
sống tại Hải Ninh, Hải Pḥng, Hà Nội, Thanh Hóa.. cũng được vào Nam,
cùng một số Hoa Kiều thân cộng, đang do Tư Méo, tức Trương Gia Triều, bí
danh Trần Bạch Đằng chỉ huy, để trà trộn, tuyên truyền gây rối trong
cộng đồng người Hoa miền Nam. Đồng thời con đường ṃn giao liên cũ, từ
miền bắc vào Liên Khu 5, do đại tá Nguyễn Thông, bí danh của trung tá
Nhật Ishitako, mở năm 1947, cũng được đảng giao cho Hai xe ngựa tức đại
tá Vơ Bẳm nối lại, để trùng tu vào năm 1959. Đây là con đường chiến lược
Liên Việt, tức là đường ṃn Trường Sơn hay Hồ Chí Minh, mang bí danh
559A. Sau khi Pham văn Đồng nhân danh thủ tướng nước VNDCCH, theo chỉ
thị của đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, kư xác nhận quần đảo Hoàng
Sa-Trường Sa thuộc Trung Cộng vào năm 1958, th́ Hà Nội được Tàu Cộng,
giúp phương tiện mở thêm một đường dây trên biển Đông với bí danh 559B
hay 759, chuyển quân dụng và bộ đội từ bắc vào nam bằng đường thủy. Theo
Đồng văn Cống, từng phụ trách đường dây 559B từ 1959-1968, th́ việc tổ
chức hai con đường bí mật trên, chỉ có Hồ Chí Minh, Phạm văn Đồng, Lê
Duẩn, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Vơ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng và Trần văn
Trà, biết mà thôi. C̣n những người khác chỉ thừa hành theo lệnh, kể cả
Nguyễn Chí Thanh, Trần Độ, Trường Chinh..
2-
Đường Ṃn Hồ Chí Minh:
Sự thật, những chuyện đă xảy ra hằng ngày trên đường ṃn
HCM, tức là hành lang xâm nhập người và quân dụng, từ Bắc vào Nam của
cong sản Hà Nội, đối với Hoa Kỳ và VNCH, không phải là huyền thoại hay
bí mật ghê gớm, v́ những ǵ xảy ra ở đó, qua phi cơ thám thính và các
toán Biệt Kích hoạt động, họ gần như biết đủ.
Có chăng
là sự lạ lùng, v́ ai cũng biết VC là kẻ chủ mưu gây nên cuộc chiến Đông
Dương lần thứ 2, chứ không phải là nội chiến. Ngoài ra cuộc xâm lược qui
mô đều phát xuất từ đường ṃn Trường Sơn, tiếp diễn liên tục đêm ngày
không bao giờ gián đọan. Thế nhưng quân lực Hoa Kỳ, Đồng Minh và ngay cả
VNCH, cũng bị chính phủ Mỹ tại Hoa Thịnh Đốn, ra lệnh giới hạn trong lúc
chiến đấu với VC, theo qui định tại nhiều điểm, được gọi là “ Luật Chiến
Đấu ố Rules of Engagement “.Ngoài ra cũng không được tấn cộng hậu phương
miền bắc, để tránh sự đụng độ quân sự với Trung Cộng, như đă xảy ra năm
1950, tại chiến cuộc Cao Ly.
Năm 1985, sau mười năm chấm dứt cuộc chiến Đông Dương lần
thứ 2, Bộ Quốc Pḥng Mỹ mới cho phép giảm độ mật, khi cho
Congressssional Record phổ biến hạn chế, cái gọi là “ Luật Chiến Đấu tại
VN “ qua 26 trang tóm tắt, trong đó có liên quan tới đường ṃn Hồ Chí
Minh. Cũng nhờ vậy, ta mới biết được nhiều điều thật vô lư, chỉ có siêu
cường Mỹ mới có. Chẳng hạn nhu trong luật chiến đấu, có điều 3 cấm không
quân Mỹ giội bom các quân xa VC, nếu chúng ở cách đường ṃn HCM 200m.
Điều này giúp cho quân xa Bắc Việt an toàn khi chúng lái xe trên đường
ṃn Trường Sơn, lúc nghe máy bay Mỹ oanh tạc, chỉ cần lái x e ra khỏi vị
trí 200m, là hết chuyện. C̣n điều 6 th́ cấm quân Mỹ truy kích VC, nếu
chúng rút qua biên giời Lào hay Kampuchia. Biếy vậy, nên hầu hết các căn
cứ của Bắc Việt, kể cả cục R đều đươc lập sát hay bên kia biên giới, nên
rất an toàn. Do trên các cuộc hành quân vượt biên mang tên Toàn Thắng,
vào năm 1970 tại Miên hay hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào, vào thời TT
Nixon, đă bị đảng Dân Chủ Mỹ thân cộng, căn cứ vào luật chiến đấu, la ó
phản đối dữ dội. Cuối cùng tại Quốc Hội, cũng cái đám nghị sĩ-dân biểu
đảng Dân Chủ Hoa Kỳ, ra luật cấm quân lực Hoa Kỳ hành quân vượt biên
khỏi Nam VN. Những bí mật nhỏ nhoi trên, chỉ là một trong muôn ngàn điều
bật mí sau này, cũng là lư do, khiến cho Mỹ cũng như VNCH, dù đă nỗ lực
và hao tốn không biết bao nhiêu tiền bạc, xương máu nhưng cuối cùng vẫn
không ngăn nổi cuộc tiến quân của Bắc Việt, trên đường ṃn HCM.
Theo Đồng Sĩ Nguyên, phụ trách Binh Đoàn 559A từ tháng
12/1966 tới tháng 4/1975, th́ đơn vị này có gần 2000 xe vận tải và 4
binh trạm, với nhiệm vụ tải người và quân dụng từ miền Bắc vào Nam. Quân
số của Binh đoàn 559A trên 120.000 người, gồm 10.000 thanh niên xung
phong, 1 sư đoàn cao xạ pḥng không của Bộ TTM/VC tăng phái và tám sư
đoàn vận tải, chiến đấu trực thuộc. Sau ngày kư hiệp định ngưng bắn
1973, cọng sản Bắc Việt băi bỏ giai đoạn gùi thồ đường đất và binh trạm,
mà công khai chuyển quân từ bắc vào nam, mỗi lần cả sư đoàn tới binh
đoàn, kể cả tăng-pháo, trước sự bất lực của VNCH khi Hoa Kỳ đă phủi tay
về nước. Do trên cuộc hành tŕnh chỉ mất 12 ngày, thay v́ 4 tháng như
trước, nên VC lúc nào cũng đủ quân số và quân dụng, v́ có cả một núi
người sẵn sàng “ sinh bắc tử nam “, cũng như các nước xă hội anh em,
nhất là Trung Cộng, hết ḷng chi viện. Trong lúc đó, VNCH chiến đấu với
cả khối cọng sản đệ tam quốc tế trong cô đơn nơi chiến trường, đă vậy
c̣n bị bọn cốt người mà óc khỉ tại hậu phương, công khai đâm hùa trí
mạng. Chiến đấu trong hoàn cảnh thê thiết như vậy, không mất nước mới là
chuyện lạ ?
A - ĐƯỜNG
M̉N TRƯỜNG SƠN :
Hầu hết con đường chiến lược HCM đều nằm trên rặng Trường
Sơn, kể cả tuyến xuất phát tại Vinh (Nghệ An), cho tới đoạn cuối cùng rẽ
vào Phước Long. Rặng Trường Sơn là xương sống của Trung phần, khởi đầu
từ sông Cả tới sông Bông (Quảng Nam), chạy dọc theo biên giới Việt Lào.
Từ bắc vào nam, có nhiều rặng núi cao trên 2500m, như Pu-Sai-Lai-Leng ở
Nghệ An cao 2711m, Vụ Quang tại Hà Tĩnh cao 2286m, A Tuất ở Thừa Thiên
cao 2550m.. Nhưng nhờ có nhiều đèo như Kéo Nưa trên núi Bà Mụ, đèo Mụ
Giạ ở Hà Tỉnh, đèo Lao Bảo trên quốc lộ 9, nên sự thông thương giữa
Lào-Việt rất thuận tiện. Từ năm 1960 về sau, Bắc Việt lợi dụng những
đường đèo trên, để nối liền nhánh Trường Sơn Đông ở VN sang Trường Sơn
Tây, hoàn toàn nằm trên đất Lào.
Rặng Trường Sơn từ phía nam sông Bông tới Miền Đông Nam Phần,
được gọi là Cao Nguyên Nam Trung Phần, v́ độ cao chỉ c̣n trung b́nh
1000m, trừ phía bắc tỉnh Kon Tum, cửa ngỏ của Bắc Việt xâm nhập vào Vùng
2 chiến thuật, lại có nhiều rặng núi cao, rất đồ sộ và hiểm trở như Ngọc
Lĩnh (2598m), Movia (2338m), Ngok Krin (2215m). Tại tỉnh Pleiku, cao
nguyên Nam Trung Phần, hơi cao ở mạn đông tại ranh giới các tỉnh Phú
Bổn, B́nh Định nhưng lại thấp dần ở Miền Ba Biên Giới. Lợi dụng địa thế
thiên nhiên vùng này, Hà Nội đă làm một nhánh rẽ, từ Đức Cơ-Pleime xuống
miền duyên hải Trung phần.
Khởi đầu từ năm 1959, đường ṃn HCM do Hai xe ngựa (Vơ Bẳm)
sáng tạo, thật sự chỉ là một tuyến đường gùi vô cùng bí mật, với “ đi
không để dấu, nấu không để khói và nói không thành tiếng “.Sau đó theo
thời gian và nhu cầu chiến cuộc, tuyến gùi phát triển dân thành tuyến
đường thồ xe đap, rồi đường xe ô tô với đường dây điện thoại cùng hệ
thống ống dẫn dầu, chạy song song kế đường ṃn. Có thể gọi đây là một
Bát Trận Đồ cũng không ngoa chút nào v́ con đường có tới hằng trăm, hằng
ngàn nhánh nhỏ, chạy chằng chịt dọc ngang, từ đông sang tây, khắp nam
tới bắc, chẳng biết đâu mà ṃ, kể cả VC, nếu không có giao liên hướng
dẫn, vẫn bị lạc chết đói, như Dương Thu Hương đă kể trong tiểu thuyết “
Vô Đề “.Sau năm 1973 khi hiệp định ngưng bắn ra đời, Kissinger cho phép
quân Bắc Việt ở lại VNCH hợp pháp như là một thực thể chính trị, giúp Hà
Nội ngang nhiên xây dựng con đường chiến lược trên, thành một xa lộ đất
xe cộ xuôi ngược rộn rịp đêm ngày. Năm 1974, chủ tịch cọng sản Cuba là
Fidel Castro đă tặng cho Hà Nội, một dàn thiết bị máy móc, làm cầu đường
do Nhật chế và c̣n giúp một đơn vị công binh, tới tận Quảng Trị hướng
dẫn công binh Bắc Việt, làm chiếc cầu dây treo Dakrong, nằm trên ngă tư
Khe Sanh-Tchépone và đường ṃn. Sau đó chính Fidel Castro tới tận chỗ để
làm lễ khánh thành cầu, c̣n được hướng dẫn đi thăm Đông Hà, mà Bắc Việt
khoe là vùng giải phóng, từ sau trận Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972.
Theo các tài liệu hiện hành của cả mọi phía, có trong thư
viện và báo chí VC sau này, th́ hệ thống đường ṃn HCM, chạy dài từ
Trung Lào tới Cam Bốt, sự thật là hoàn toàn nằm trên lănh thổ Lào-Miên.
Con đường này được xâm nhập vào lănh thổ VNCH bằng năm nhánh rẽ với 21
trục giao liên, có chiều dài tính theo đường đất tổng cộng hơn 12.000
dặm Anh. Con đường được mang nhiều tên và chỉ có đọan trên lănh thổ Bắc
Việt, mới được gọi là đường Hồ Chí Minh. Riêng khúc đường chạy trong
lănh thổ Lào và Nam VN lại có nhiều tên như đường Thống Nhất, Dân Tộc
Giải Phóng và Cách Mạng. C̣n đoạn cuối trên đất Miên là đường ṃn
Sihanouk. Để bảo toàn bí mật, tất cả hàng hóa, quân dụng, vũ khí và bộ
đội xuất phát từ ga Hàng Cỏ (Hà Nội) hay Vinh (Nghệ An), đều được đưa
tới cửa ngơ Tân Kỳ (Nghệ An) hay Quán Trại (Đức Tho-Hà Tĩnh), để vào
Quảng B́nh và Quảng Trị, rồi từ đó mới xuất tuyến xâm nhập vào Nam.
Nhưng đường đi, dù ở trong lănh thổ Bắc Việt, vẫn vô cùng nguy hiểm, v́
bị phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc hằng ngày, nhất là tại thung lũng tử thần Đồng
Lộc. Ở đây, đường chạy giữa hai rặng núi cao, bên này là Rú Ṃi, c̣n
phía kia mang tên Sọ Voi. Đây chính là cửa ngỏ đầu tiên, của đường ṃn
HCM, nối liền bắc VN tới lănh thổ Lào. Từ đó đường ṃn mang tên Trường
Sơn Tây, tiếp tục tới Khâm Muôn (Lào), th́ gặp Đường 20 Quyết Thắng, từ
Phọng Nhạ (Quảng B́nh) sang. Khúc đường này dài hơn 127 km, chạy len lỏi
giữa khu rừng già Kẽ Bàng và miền hoang địa Bulapha của Lào.
Theo báo Aux Ecoutes du Monte, th́ hải cảngVinh (Nghệ An),
là yết hầu của đường ṃn HCM, v́ gần như mọi thứ đều xuất phát ở đây, để
xâm nhập vào Nam. Cũng từ đây, đường được phân làm ba nhánh qua Lào, để
tránh thiệt hại v́ sự oanh tạc của máy bay Mỹ. Riêng tổng hành dinh của
Đoàn 559A, th́ đóng rải rác trong khu tam giác các thị trấn Napé,
Kamkeut,Kanmon.. nằm dọc theo con sông Nam Pao của Lào. Đây là một quân
chủng đặc biệt của cọng sản Bắc Việt, gồm công binh, vận tải, trách
nhiệm bảo tŕ, sửa chữa con đường, đồng thời phân phối quản trị đoàn dân
công, xe tải chuyển vận bộ đội, vũ khí, tiếp liệu từ bắc vào chiến
trường miền Nam.
Tại ngă ba Khâm Muôn, giao điểm của hai nhánh Quyết Thắng 20
và Tân Kỳ, đường ṃn HCM, đi vào khu rừng già Hạ Lào, cặp kè với con
sông Nam Cà Dinh, chạy tới đỉnh dốc đứng 1001 trên núi Răng Cọp. Từ đây
đường ṃn đổi tên thành Trường Sơn, sau khi vượt qua vĩ tuyến 17, để tới
thị trấn Tchepone (Muang Xepon) nằm trên quốc lộ 9. Đây cũng là phân
nhánh đầu tiên của đường ṃn Trường Sơn, xâm nhập lănh thổ VNCH, để tấn
công các căn cứ quân sự Lao Bảo, Khe Sanh, Làng Vei, Cà Lu.. trong tỉnh
Quảng Trị. Sau đó, đường ṃn vẫn tiếp tục chạy trên đất Lào tới núi Ấp
Bia (937m), một địa danh nổi tiếng, trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ
hai (1960-1975), được một kư giả ngoại quốc, chứng kiến tận mắt cảnh
hàng ngàn xác bộ đội Bắc Việt, bị banh thây bỏ lại tại chiến trường, v́
bom dạn phi pháo, nên đă đặt là Hambuger Hill. Tại đây, đường lại được
phân nhánh tới các thung lũng A Lưới, Tà Bạt và A Shau. Đậy là bàn đạp
mà Hà Nội tập trung bộ đội, để tấn công Thừa Thiên và Đà Nẳng. Sau khi
vượt qua cao nguyên Boloven gần ngă ba biên giới Việt-Lào-Miên, đường
ṃn lại phân thành hai nhánh khác chạy vào lănh thổ VNCH, một nhánh phát
xuất từ Savarane tới Dakto, Tân Cảnh, Kontum.. trước khi ngang qua các
trại Lực Lượng Đặc Biệt Benhet, Dakto.. Nhánh khác từ Attopeu vào
Pleiku, ngang qua Trại LLĐB Đức Cơ, Pleime. Nằm giữa hai nhánh rẽ này
vẫn trên đất Lào, là mật khu 609 của Bắc Việt. Kể từ đây, đường ṃn
Trường Sơn đổi thành đường ṃn Sihanouk, với nhiều mật khu như
702,701,740, 203,351,350 và 400. Trên đất Miên, đường ṃn có một nhánh
rẽ vào Phước Long và phần cuối cùng chạy xuống tận hải cảng Kampong Som
(Sihanouk Ville) của Miên. Chính tại đây, Bắc Việt nhận trực tiếp hàng
hóa viện trợ của Nga,Tàu và Đông Âu, tới năm 1970 mới chấm dứt, khi
Sihanouk bị Lonnol lật đổ. Nhờ đó Hoa Kỳ và QLVNCH mới được phép hành
quân sang đất Miên theo lời yêu câu của chính phủ mới, nên mối tiêu diệt
gần như tất cả các mật khu của Bắc Việt tại đây, qua các cuộc hành quân
Toàn Thắng và Cửu Long.
Tóm lại suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai, ngoài số nạn
nhân chết bởi bom đạn, giao tranh, phần lớn bộ đội, cán binh cọng sản
miền bắc, được ghi nhận là ngă gục trên đường Trường Sơn, v́ trăm ngàn
nổi gian lao cực nhọc và bệnh tật, đó là chưa kể tới chết khi đụng trận,
bị bom đạn oanh tạc, ḿn bẩy. Hàng vạn nấm mồ hoang lạnh, được vùi lập
vội vàng, trên con đường dài heo hút, chỉ một thời gian ngắn, đă biến
thành phân mục, bón xanh thêm cây lá rừng hoang, như Trần Xuân Lợi, một
bộ đội vượt tuyến đă viết :
“
Những hồi mưa ngớt
Tựa nghĩ gốc cây
Nh́n rừng không nói
Nh́n mây chẳng thấy
Chỉ có núi đèo
Kế nhau nối tiếp
Oại là khủng khiếp
Cho cảnh Trường Sơn ..”
Hay : “
Rải rác biên cương mồ viễn xứ, chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, áo
bào thay chiếu anh về đất, sông nuí gầm vang khúc độc hành ố Quang Dũng
“.Tất cả là sự thật, mà Đại Tá Vơ Đại Tôn, tức nhà thơ Hoàng Phong Linh,
trong cuộc Đông Tiến bất thành, khi trở về VN để giải phóng quê hương
sau năm 1975, đă ghi lại :
“
Đỉnh núi cao mây vờn,
đá ngh́n năm quên tuổi
ta lạc loài như dă thú không tên
qua Tchépone, Boloven
về Hạ Lào thăm thẳm
Atopeu đường xa muôn dặm
Rừng tây nguyên heo hút trong tim ..”
Con đường có rất nhiều đoạn dài, xuyên giữa rừng già bất tận,
phi cơ quan sát hay không ảnh cũng bó tay, ngoại trừ sự xâm nhập của các
Toán Biệt Kích, thuộc binh chủng LLDB/VNCH.
Để bảo vệ con đường chiến lược này, Bắc Việt thành lập Đoàn
559A, gồm nhiều binh trạm, mỗi nơi có quân số tương đượng một trung đoàn
tác chiến. Giữa hai khu vực, có các toán giao liên và các kho dă chiến.
Vùng nào lo vùng nấy, không ai biết ǵ tới các khu vực lân cận. Tóm lại,
Đoàn 559A chỉ có trách nhiệm từ vĩ tuyến 17 đổ vào nam mà thôi. Riêng
phía bên này vĩ tuyển ra tới Bắc Việt, bổn phận tái tạo và giữ tốt, các
tuyến đường giao thông, tiếp vận cho chiến trường, được giao cho hàng
vạn thanh niên nam nữ, trong ba tổng đội Thanh Niên Xung Phong. Do trên
đă có không biết bao nhiêu người tuổi trẻ, phải gục chết giữa bom đạn,
khi bị bắt buộc bám trụ tại chỗ, để mỗi lần phi cơ Mỹ oanh tạc vừa dứt,
th́ họ với sức người và cuốc xẻng, ào ra chiến trường, để lấp hố bom
trên mặt đường vừa bị cầy nát. Bởi thế giao thông không bao giờ bị gián
đoạn.
B - CÁN
BINH, BỘ ĐỘI BẮC VIỆT TRÊN ĐƯỜNG M̉N HCM :
Với mục đích lường gạt dư luận thế giới, đánh lận con đen,
chối bỏ việc trắng trợn xâm lăng VNCH, nên cọng sản Bắc Việt lúc nào
cũng tổ chức cuộc chuyển quân vào Nam, thật bí mật. Thêm vào đó là sự
phụ họa rất ăn khớp nhịp nhàng của một số báo chí theo VC tại miền Nam,
nên Hà Nội gần như đâm mù cả nhân loại, khiến ai cũng tin là cuộc chiến
tại miền nam, là do chính người miền nam v́ bất măn chính phủ độc tài
tàn bạo, nên nỗi loạn chống phá, chứ miền bắc không hề can dự. Thời gian
đầu cuộc chiến, việc chuyển quân từ bắc vào nam, thật vô cùng khó khăn
nguy hiểm. V́ thế chỉ có bộ binh vượt tuyến mà thôi. C̣n vũ khí quân
dụng, được chuyển vận bằng ghe thuyền tại tuyến đường 559B trên Đông
Hải, do Đồng văn Cống phụ trách. Trước tết Mậu Thân 1968, bộ đội Bắc
Việt vào Nam, được bồi dưỡng và huấn luyện trong thởi gian 8 tháng, với
tiêu chuẩn 2 đồng 40 xu tiền Hồ/1 ngày. Trước khi lên đường “ sanh bắc
tử nam”, các cán binh bộ đội được cấp 5 ngày phép về thăm gia đ́nh. V́
chủ nghĩa xă hội miền bắc rất công b́nh, con trốn quân dịch, cha mẹ dù
có già 100 tuổi vẫn phải đi thế, ngoài ra tất cả tem phiếu, sổ gia đ́nh
đều bị tịch thu. Nên trong một xứ mà tất cả nhu yếu phẩm đều phải bó
buộc mua tại cửa hàng quốc doanh, chợ nhà nước, th́ đâu có ai dám không
đi lính, để vừa khổ thân lại làm liên lụy cho gia đ́nh. Ở Bắc Việt, củng
không có chùa, nhà thờ và trường đại học, nên cũng không có chế độ hoăn
dịch v́ tu xuất hay học hành. C̣n du học hay xuất ngoại , th́ chỉ dành
ưu tiên cho con cái và gia đ́nh cán bự cỡ tổng bộ trưởng và hàng trung
ưởng đảng, nên sau khi hết phép, ai nấy đều trở lại để lên đường vào Nam
theo lệnh đảng.
Trên đường tiến quân c̣n trong lănh thổ Bắc Việt, các đơn vị
chính quy hành quân, vẫn sử dụng quân phục cố hữu bằng vải kaki Nam
Định, với mũ bầu có bọc vải dầu, màu xanh lá cây. . Quân xa sẽ chở bộ
đội tới Lào, qua một trong ba tuyến đường chiến lược, nối liền hai nhánh
Trường Sơn Đông và Tây, tại Đồng Lộc (Hà Tĩnh), Phong Nhạ (Quảng B́nh)
và Vĩnh Linh (Quăng Trị), để tới biên giới VNCH. Tại đây, bộ đội cọng
sản Bắc Việt, sẽ lột xác hoàn toàn thành người “ Giải Phóng Quân “ trong
MTGPMN của Anh Tho., chi B́nh, chị Định.Bến Tre lập ra. Tóm lại tất cả
những ǵ có liên hệ tới cọng sản miền Bắc, đều phải hoàn trả hết cho cán
bộ chính trị đơn vị. Từ đây bộ đội chính quy miền bắc là giải phóng quân
miền nam, dù cả hai đều là đảng ta đó, nên phải mặc đồ bà ba đen, khăn
rằn quàng cổ, mang dép râu, đội mũ tai bèo, y chang như VC tại Nam phần
đă sắm tuồng từ năm 1960. Cả tới cờ hiệu, cũng phải dùng cờ MTGPMN, nửa
xanh nửa đỏ giữa có sao vàng. C̣n bài hát th́ đă có bản “ Giải phóng
miền nam “ của Nguyễn Minh Siêng tức Lưu Hữu Phước.
Trước khi hiệp định Ba Lê 1973 kư kết, nhằm hợp thức hóa
cũng như cho phép bộ đội chính quy Bắc Việt, được công khai đóng ngay
trên lănh thổ VNCH, th́ sự di chuyển trên đường ṃn HCM rất khó khăn
nguy hiểm, kể cả các tuyến giao thông chiến lược, nối Bắc Việt với nhánh
Trường Sơn Tây, nằm trong lănh thổ Trung Lào, v́ phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc
ngày đêm liên tục. Nên chỉ riêng đoạn đường, từ điểm xuất phát đầu tiên
tại Tân Kỳ (Nghệ An), tới thi trấn Tchepone (Hạ Lào), cũng phải mất từ 2
-3 tháng. Sau đó các đơn vị bộ đội chính quy miền bắc, được các toán
giao liên hướng dẫn vượt tuyến và xâm nhập các trục vào lănh thổ VNCH để
hoạt động, tuỳ theo nhiệm vụ được đảng giao phó. Sau tháng 2-1973, không
quân Hoa Kỳ chính thức rút khỏi cuộc chiến, c̣n VNCH th́ không đủ phương
tiện để ngăn chân, nên Bắc Việt gần như công khai hoạt động, không cần
che đậy để lừa bịp dư luận như trước. Do trên, con đường ṃn được tu bổ
thành một xa lộ đất. Dọc đường, thiết lập nhiều khu dưỡng quân, bệnh xá,
kho tiếp liệu. Song song là một hệ thống ống dẫn dầu, xăng cùng một
đường dây điện thoại cao thế, do Liên Số và các nước Đông Âu cung cấp
viện trợ, bom dầu từ các tàu nhiên liệu cập bến ở Nghệ An. Tại các mật
khu cũng như địa điểm trọng yếu, Bắc Việt cho bố trí một mạng lưới pḥng
không dầy đặc, với đủ loại súng đại bác do Nga Sô, Đông Đức viện trợ như
súng cao xạ, hỏa tiễn loại 35 và 57 ly. Từ năm 1965 tới 1967, ước chừng
7000 bô đội chính quy xâm nhập miền Nam hằng tháng. Trong đợt tổng công
kích Tết Mậu Thân 1968, quân số cọng sản Bắc Việt, có mặt tại lănh thổ
VNCH hơn 100.000 người. Để chuyên chở người, quân dụng và vũ khí vào Nam
trên đường ṃn Trường Sơn, Hà Nội đă huy động một số quân xa, từ 1250
-1700 chiếc. Những quân xa này đều do TRung Cộng, Liên Xô viện trợ, gồm
các hiệu Zills, Molotova.. loại 130 bốn bánh và 157 sáu bánh, có trọng
tải từ 4-6 tấn. Ngoài ra có một đoàn dân công khổng lồ, thi hành theo
cái gọi là “ nghĩa vụ lao động “, từ 16-55 tuổi “, không phân biệt nam
nữ, để giữ hộ khẩu và được sống yên trong chế độ công an khu vực. Hàng
hóa phần lớn được chuyển vận vào Nam bằng sức người, xe đạp và voi.
Sau tháng 5-1975 chiến tranh chấm dứt, có rất nhiều bí mật
được bất mí, phần lớn nhằm làm sáng tỏ lư do thất bại của Quân Lực Đồng
Minh, Hoa Kỳ và VNCH trong cuộc chiến Đông Dương, mà nỗ lực chính là
ngăn chận và phá vỡ hệ thống đường ṃn Trường Sơn, hành lang chính để
cán binh bộ đội cọng sản Bắc Việt, xâm lăng Miền Nam. Đồng thời phơi bày
ra ánh sáng, thảm trạng “ Mạng người lá rụng “ v́ đường đi không tới,
của hằng trăm ngàn người “ sinh bắc tử nam “.Tất cả nạn nhân chiến tranh
trên, chẳng có ai v́ nhiệt t́nh cách mang, ngu để phải chết thảm thê v́
đụng độ, máy bay oang tạc, hải pháo và bệnh tật không có thuốc men chửa
trị. Và dù phía VNCH không đạt được chiến thắng cuối cùng nhưng rơ ràng
Họ đă tiêu diệt và phá vỡ gần hết những mật khu quan trọng của Bắc Việt,
trên đuờng ṃn Trường Sơn, như 604 tại yết hầu Tchépone-Hạ Lào và 611
trong thung lũng Ashau, gồm nhiều binh trạm, hậu cần, ống dẫn dầu cùng
các tổng kho tiếp tế. Tác giả Lane Rogers cũng là Đại Tá Thủy Quân Lục
Chiến Hoa Kỳ, từng tham dự nhiều trận chiến trên đường ṃn, đă viết :”
Để bảo vệ và hoạt động được liên tục trên hành lang chuyển quân, Bắc Bộ
Phủ đă thí quân một cách vô nhân đạo. Đó là lư do nhiều lần con đường
chính và năm nhánh rẽ vào Nam VN, tưởng như đă bị phá vỡ hoàn toàn.
Nhưng rồi đoàn kiến người cũng t́m đủ mọi ngơ ngách khác để xâm lăng
miền Nam. Riêng Thống Tướng Westmoreland,cựu Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ và
Đồng Minh, chiến đấu tại VN, th́ giải thích lư do thất bại của Mỹ, trong
nỗ lực hủy diệt con đường này, phần lớn do trở ngại thiên nhiên,là chốn
ma thiêng nước độc, gây sự sợ hăi chết chóc nhiều nhất trên thế giới.
3 -
Máu Đẵm Trường Sơn (1960-1975):
Hai mươi năm chiên cuộc VN, đă cướp mất đi hằng triệu thanh
niên nam nữ hai miền đất nước, cũng như đồng bào vô tội.
Sự tủi
nhục và đau ḷng nhất, riêng chỉ có kẽ trong cuộc và dân chúng xă nghĩa
Bắc Việt mới hiểu thấu. Riêng người miền Nam sống tại các đô thị lớn như
Sài G̣n, Huế, Cần Thơ.. gần hết chỉ hiểu một cách đại khái, mù mờ, qua
tài liệu, báo chí và sự tuyên truyền của cả hai phía. Họ đâu có bao giờ
biết rằng, trong suốt cuộc chiến, Bắc Việt, Hoa Kỳ và QLVNCH, đă dành
giựt từng thước đất trên đỉnh Trường Sơn, v́ một bên th́ quyết ḷng dùng
máu xương người để xây huyết lộ, c̣n phía bên kia cũng lấy mạng sống,
bom để phá hủycho tận tuyệt. Nói chung cả hai phía đều sử dụng tối đa
mạng sống con người Việt, qua các khẩu hiệu hào nhoáng nhưng mặt thật,
cũng chỉ để phục vụ cho quyền lợi riêng tư của họ mà thôi.
A-VỀ PHIÁ
CỌNG SẢN BẮC VIỆT :
Sau khi Thủ Tướng Liên Xô Nikita Khrowshchev, phát pháo mở
màn cuộc chiến giải phóng toàn cầu vào ngày 6-1-1961, cũng là thời gian
khởi đầu cho tới ngày 30-4-1975, Bắc Việt xâm lăng cưỡng chiếm VNCH.
Ngoại trừ các chóp bu ngồi tại Bắc Bộ Phủ, không ai có thể biết rơ, đă
có bao nhiêu cán binh, dân công và thanh niên xung phong đă bị thương
vong v́ cuộc chiến. Phần th́ cọng sản quen bưng bít sự thật, hơn nửa
trong chủ nghĩa thiên đàng, không có chế độ thương binh ngoài mặt trận.
Nên tất cả những điều Đảng tuyên bố, gần như là tuyên truyền láo bịp,
nên sự thật đâu biết sao mà ṃ ? Nhưng chắc chắn có điều, gần hết các
trận đánh khốc liệt , đều xảy ra trên hành lang chiến lược Trường Sơn,
từ sự hủy diệt bằng bom ḿn, hàng rào điện tử, chiến tranh khí tượng,
thuốc khai quang, không quân cho tới những đụng độ trực tiếp giữa Bắc
Việt với Hoa Kỳ và VNCH, mà cao điểm là cuộc hành quân Lam Sơn 719, tại
Hạ Lào-1971.
Trên lănh thổ Bắc Việt, trực diện với bom đạn hằng ngày, là
những nam nữ thanh niên, trong các Tổng Đội Thanh Niên Xung Phong. Nhiều
người đă bị chết một cách oan khiên tức tưởi, tại ngă ba Đồng Lộc (Hà
Tĩnh), Đường 20 Quyết Thắng (Quảng B́nh), Hưng Hóa (Quảng Trị ).khi bị
bắt buộc thi hành các công tác hiểm nguy như giao liên đơn độc giữa rừng
núi muôn trùng, làm mốc hướng dẫn đoàn xe đến các địa điểm tránh bom
Mỹ.. Trong muôn ngàn thảm kịch, được đưa lên phim quảng cáo, vẫn thảm
nhất là cái chết của 10 cô gái TNXP, thuộc Tiểu Đội 4/Tổng Đội 53 ố Hà
Tĩnh, bị bom đánh sập, chôn sống tập thể tại Ngă Ba Đồng Lộc, vào sáng
ngày 24-7-1968. Hoặc chuyện bốn cặp TNXP và công binh, cũng bị chết ngạt
trong một cái hang núi tại Kẽ Bàng (Quảng B́nh).. Nhưng đây cũng chỉ là
một trong hằng triệu cái chết vô danh của phận người xấu số trong chiến
tranh, nếu đem so sánh với những cái chết khác tại các tuyến đường rẽ
vào lănh thổ VNCH.
Không kể đến sự đụng độ thường xuyên giữa các Toán Biệt Kích
Quân cảm tử, thuộc Binh chủng LLDB/VNCH và cán binh Bắc Việt, trên mọi
ngơ ngách của đường ṃn Trường Sơn, ngay cả trong lănh thổạ Bắc Việt. Kể
từ năm 1965 tới khi có Hiệp định Ba Lê 1973, đă có không biết bao nhiêu
trận đánh lớn giữa cọng sản miền bắc và quân lực Đồng Minh, Hoa Kỳ cũng
như QLVNCH. Điển h́nh như các trận PLEIME -1965, giữa Toán A217 biệt
kích Mỹ-Việt, TĐ91BCD/LLDB, TD1/TrD45/SD23BB, TD21+22/BDQ,Chi Đoàn 3
Thiết kỵ/VNCH với 3 Trung Đoàn 32,33,66 cong sản Bắc Việt. Ngày
27-10-1965, SD1kỵ binh không vận Hoa Kỳ, hành quân tại thung lủng
IA-DRANG, Pleiku, bẻ găy âm mưu tập trung của 3 SD Bắc Việt, nhằm chia
cắt VNCH thành hai mănh. Tháng 12-1965, Bắc Việt lại tấn công 2 Trại
LLDB .Tà Bạt, A Lưới (Thừa Thiên), một trận đụng độ đẵm máu giữa cọng và
Mỹ+VNCH tại căn cừ Ashau, một tiền đồn ngăn chận cán binh Hà Nội, tràn
xuống miền duyên hải.
Mùa thu năm 1967, Bắc Việt tấn công đồng loạt nhiều tiền đồn
VNCH trên đường rẽ vào Chiến khu C (Phước-B́nh Long) cũng như Kontum, v́
2 khu vực này là cửa ngơ chiến lược quan trọng nhất trên hành lang xâm
lăng VNCH của cọng sản Bắc Việt. Để giải tỏa áp lực tại Tiền đồn Dakto,
16 tiểu đoàn thuộc SD4BB +SD.Dù/Hoa Kỳ và Lực lượng Nhảy Dù VN, đă ác
chiến với 1 SD.Bắc Việt, thương vong hai phía rất nặng.
Trên QL9 từ Hạ Lào vào Quảng Trị, có Tiền Đồn Khe Sanh là
căn cứ của Biệt kích quân VNCH, thành lập từ tháng 7-1962. Đây cũng là
điểm xuất phát các Phi Vụ Tiger Hound rải quân xâm nhập đường ṃn HCM.
Như các căn cứ Cồn Tiên, Gio Linh, Caroll, Cam Lộ.. Khe Sanh là các tiền
đồn, đối diện với vùng biên giới phía bắc khu phi quân sự vỹ tuyến 17
lănh thổ Bắc Việt. Bởi vậy cọng sản luôn t́m mọi cách tiêu diệt cái gai
nhọn Khe Sanh, đâm vào yết hầu đường ṃn Trường Sơn. Cuối năm1967, trưóc
khi mở màn cuộc tấn công đẫm máu Tết Mậu Thân 1968, Vơ Nguyên Giáp đă mở
một mặt trận Điện Biên Phủ thứ 2 tại thung lũng Khe Sanh, với ư muốn dụ
quân Mỹ vào rọ để tiêu diệt như đă từng xảy ra vào năm 1954 trên đất
bắc. Nhưng Giáp đă tính toán sai, v́ Hoa Kỳ mạnh hơn Pháp cả 100 lần,
lại có một lực lượng hải pháo không quân hùng hậu, nên cuối cùng Bắc
Việt phải chém vè về Hạ L2o, bỏ lại tại Khe Sanh hơn 20.000 xác bộ đội,
tỷ lệ 90% quân số tham dự trận chiến. Cũng tại đây, ngoài quân Mỹ, c̣n
có một đơn vị VNCH duy nhất được tăng phái, đó là TD37 Biệt Động Quân.
Đơn vị này dù quân số ít ỏi, lại bị nằm tiền đồn nhưng suốt thời gian
chiến cuộc, đă giữ vững được pḥng tuyến phía nam của căn cứ Khe Sanh,
qua nhiều đợt tấn công biển người của SD304 Bắc Việt.
Trong cuộc tổn công kích Tết Mậu Thân 1968, cọng sản thất
bại hoàn toàn trên chiến trường, nên hầu hết tàn binh đều rút về phía
bên kia biên giới Việt-Miên-Lào, trên đường ṃn Trường Sơn. Phía VNCH và
Hoa Kỳ đă mở nhiều cuộc hành quân truy quét. Tại Vùng 1 chiến thuật,
ngày 16-4-1968 SD1ky binh Mỹ + TrD3/SD1BB/VN hành quân Lam Sơn 216-Dela
Ware tảo thanh vùng A Lưới. Kế tiếp hành quân Sonerset Plain Lam Sơn 246
của SD101Dù Mỹ + TrD1/SD1BB/VN tại vùng A Lưới, Tà Bạt và mật khu 609.
Đầu năm 1969, SD101Dù + TrĐ9/TQLC/HK + TrD3/SD1BB/VN tảo thanh thung
lũng A Shau. Vùng này có một ngọn núi cao trên 1000m, nằm ngay biên giới
Lào-Việt, như một b́nh phong án ngữ các căn cứ A Lưới, Tà Bạt, A Sha.
Một trận đụng độ kinh khiếp đă xảy ra tại đây giữa hai phía. Cùng tham
chiến, không quân, pháo binh và các pháo đài bay B52, đă giội xuống
chiến trường hơn một triệu cân Anh bom các loại, trong số này có 152.000
cân Anh bom lửa, khiến cho đồi núi, cỏ cây, rừng xanh và xác cán binh bộ
đội cọng sản Bắc Việt bỏ lại khi chém vè, đều biến thành tro bụi. Cảm
thương cho số phận con người v́ tem phiếu, hộ khẩu, mà phải sinh bắc tử
nam, nên một kư giả Mỹ có mặt tại trận địa, viết bài trên báo, đă ví von
đặt tên núi Ấp Bia là Hamburger Hill. Sau này, báo chí VC hănh diện
tuyên truyền với thế giới, v́ Mỹ chết nhiều quá, nên mới có cái tên ngộ
nghĩnh trên.
Nhưng một biến cố cực kỳ quan trọng trên, gần như làm đảo
lộn chiến lược xâm lăng miền nam của Bắc Việt, cũng như chiến thắng gần
kề của VNCH, nếu như Nixon-Kissinger không bán đứng Miền Nam cho Bắc
Việt, qua cai gọi là Hiệp định Ba Lê 1973. Đó là cuộc chính biến trên
đất Miên vào năm 1970. Ai cũng biết Kampuchia từ năm 1960, là hậu cứ an
toàn của cọng sản Bắc Việt, để nhận trực tiếp hàng hóa quân dụng viện
trợ của các nước XHCN, tại hải cảng Sihanouk Ville nằm trong vịnh Thái
Lan. Đây cũng là tổng hành dinh của Cục R, đầu năo chỉ huy của đảng bộ
cọng sản miền nam, qua ngụy danh MTGPMN. Ngày 18-3-1970, Lonnol lật đổ
Sihanouk và theo Mỹ. Quân Miên cũng được lệnh tấn công các mật khu của
Bắc Việt trên đất Miên. Chiến tranh đă nổ toàn diện trên đất chùa Tháp.
Liên quân Khmer Đỏ của Polpot và VC phản công và bao vây thủ đô Nam
Vang, đồng thời người Miên qua sự xúi ngầm của tân chính phủ Lonnol, đă
đồng loạt “ CÁP DUỒNG “ Việt Kiều khắp nơi, gây thảm trạng thương đau
cho hằng vạn người dân vô tội, bị vạ lây do Bắc Việt gây ra từ mấy năm
trước.
Để cưú đồng bào về nước, đồng thời mượn dịp thanh toán các
căn cứ địa và cục R tại biên giới Việt-Miên, theo yêu cầu của Lonnol. Do
trên,QLVNCH đă tổ chức cac cuộc hành quân rất qui mô, mang tên Toàn
Thắng 41,42,43 do QD3 đảm trách. Song xong QD2 cũng hành quân B́nh Tây
và QD4 có hành quân Cưu Long. Trừ cuộc hành quân Toàn Thắng 43, do lưc
lượng hỗn hợp Việt-Mỹ, gồm SD1 Không vận Hoa Kỳ + Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù và
Thiết Đoàn 2 kỵ binh/VN. Tất cả các cuộc hành quân khác, đều đo QLVNCH
đảm trách, đă giúp Lonnol chiếm lại thủ đo Nam Vang, hải cảng Sihanouk
Ville, đồng thời phá vỡ gần như toàn diện các mật khu của VC, trong đó
có Trung Ương Cục R. Trên biển Đông, Hải quân Mỹ c̣n tổ chức cuộc Hành
quân Market Timer, để truy đuổi các tàu thuyền của Bắc Việt, trong việc
chuyển vận quân trang dụng vào Nam, bằng tuyến đường biển 559B.
Để cứu sống đoàn quân xâm lăng đông đảo, đang có mặt ở miền
nam, trong lúc các căn cứ tiếp vận tại Miên vừa bị phá hủy, nên cọng sản
Bắc Việt đă gia tăng quân lực, bằng mọi giá giữ vững cho được Huyết lộ
HCM trên đất Lào, mà trọng điểm là Thị trấn hoang tàn Tchépone. Đây cũng
lư do mà QLVNCH đă mở cuộc Hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào năm 1971,
một trận chiếm đẫm máu nhất trong Đông Dương thế chiến 2 (1960-1975).
Phía VNCH có 17.000 quân tham dự, gồm các SD Nhảy Dù, SD TQLC, SD1BB,
Liên Đoàn 1BDQ và Lữ Đoàn 1 Thiết Giáp. Về phía cọng sản Bắc Việt có
Quân Đoàn 70B, các SD2, 304,308, SD pḥng không.. Quân Mỹ chỉ đóng bên
kia biên giới, yểm trợ không vận, hải pháo, pháo binh.. Cuộc hành quân
kết thúc ngày 25-4-1971 sau khi Trung Đoàn2/SD1BB/VNCH tiến vào thị trấn
Tchépone. Dù bị thiệt hại rất nặng nhưng QLVNCH đă phần nào đạt được mục
tiêu chiên lược, là phá hủy hoàn toàn nhiều căn cứ tiếp liệu của Bắc
Việt, tại mật khu 609 và 611 trên đường ṃn HCM.
B-VỀ PHÍA
VNCH :
Trong suốt cuộc chiến, hầu như tất cả mọi binh chủng của
QLVNCH đều có mặt tại đường ṃn Trường Sơn, kể cả Cảnh Sát Dă Chiến, Xây
Dựng Nông thôn, DPQ+NQ.. Tuy nhiên đă có một Binh Chủng Đặc Biệt, từ
ngày thành lâp vào năm 1957, tới khi ră ngũ tan hàng, đă đơn độc hoạt
động âm thầm trong ḷng địch , trên suốt đường ṃn HCM từ đông sang tây,
ngay cả trong lănh thổ của Miên và Lào. Họ là những chiến sĩ “ BIỆT
KI’CH-BIỆT CÁCH “, không có sự yểm trợ nào của đơn vị bạn và hoàn toàn
tụ lực cánh sinh để mà sống trong núi rừng, nhiều nơi chưa hề có dấu
chân người.
Binh chủng LLDB có cấp số sư đoàn, bao gồm các đơn vị như Sở
liên lạc, Sở công tác, Sở khai thác địa h́nh, các liên đoàn tác chiến
31, 77, 81 Biệt cách nhảy dù và Trung tâm Huấn luyện LLDB.Đông Ba Th́n
tại Cam Lâm-Khánh Ḥa.
Như Kinh Kha ngày xưa, các chiến sĩ Biệt Kích ra đi ít khi
được trở về. Một số ít đă bị bắt tại Bắc Việt và chịu kiếp tội đồ, tới
nay nhiều người vẫn c̣n chưa được thả. V́ họ chính là kẻ thù không đội
trời chung và cũng là khắc tinh của cọng sản, trên suốt đường ṃn. Tóm
lại nơi nào có VC th́ nơi đó có LLDB. Hai bên đă trường kỳ đấu trí trong
suốt cuộc chiến , qua đủ mọi h́nh thức. Nhưng v́ lư do bảo mật, nên cả
hai phía, đều không muốn nhắc tới.
C-VỀ PHÍA
HOA KỲ :
Từ năm 1961, Lào trở thành một quốc gia trung lập, nên chính
phủ Mỹ đă bị Quốc Hội, nhất là tên thượng nghị sĩ đảng dân chủ thân cộng
William Fullbright và cái gọi là ủy ban ngoại giao, t́m đủ mọi cách ngăn
chận cấm đoán quân Mỹ can thiệp vào đất Lào. Trong lúc đó, cọng sản Bắc
Việt không hề đếm xỉa tới cái gọi là hiệp định Genève 1961, tự tác mở
con đường Tây Trường Sơn ngay trên đất Lào, để làm hành lang chuyển quân
và tiếp vận xâm lăng miền nam. Cũng do Quốc Hội trói buộc, nên từ đời TT
Kennedy cho tới Johnson, cả hai đều dè dặt trong quyết định dùng vũ lực
tiêu diệt, ngăn chận sự xâm nhập của cán binh bộ đội, trên đường ṃn HCM
V́ không thể sử dụng bộ binh, để tránh né khỏi bị công luận
thế giới và quốc hội chỉ trích, người Mỹ đă dùng các phương tiện chiến
tranh khác như oanh tạc, khai quang và dùng hàng rào điện tử. Ngay cả
việc sử dụng không quân để oanh tạc cũng vô cùng bí mật, lúc đầu đều do
các phi công thuê của Thái Lan, Đài Loan đảm trách. Về sau v́ Bắc Việt
đă được Liên Xô giúp thiết trí một mạng lưới pḥng không dày đặc, với đủ
các loại đại bác, hỏa tiễn tối tân 35,57 ly .. làm nhiều thám thính cơ
bị bắn hạ. V́ vậy để thích ứng với hoàn cảnh, Hoa Kỳ quyết định xử dụng
những phi cơ oanh tạc Thunderchiefs từ Thái Lan, cùng các phi cơ F105,
pháo đài bay B52.từ căn cứ Guam, cũng như các Hàng Không Mẫu Hạm bỏ neo
trên Thái B́nh Dương, để oanh tạc liên tục con đường ṃn HCM, trên đất
Bắc, Lào-Miên và trong lănh thổ VNCH. Riêng chủ trương của Tướng
Westmoreland, tư lệnh các lực lượng Mỹ và Đồng Minh tham chiến tại VN,
th́ luôn muốn dùng bộ binh, để cắt đứt đường ṃn HCM ngay trên đất Lào.
Nhưng ông đă bị Quốc Hội Mỹ chống đối kịch liệt v́ sợ vi phạm hiệp định
Geneve 1961. Ngoài ra Mỹ cũng luôn lo sợ va chạm quân sự với Trung Cộng,
khi tung quân vào Lào để hủy diệt con đường chiến lược HCM. Đây cũng là
những bí ẩn trong cuộc chiến VN mới được bật mí. Năm 1968 kế hoạch vượt
biên đánh sang Lào để hủy diệt đường ṃn HCM, mang tên EL-PASO sắp được
Quốc Hội Mỹ phê chuẩn, th́ xảy ra trận Tết Mậu Thân 1968 nên chiến dịch
trên đă bị hủy diệt.
12 giờ trưa ngày 30-4-1975, nhờ Tổng thống Dương văn Minh
với quyền hạn của Vị Tổng Tư lệnh tối cao, ra lệnh cho QLVNCH lúc đó
đang c̣n chiến đấu khắp các mặt trận, buông súng đầu hàng giặc. Nhờ vậy
mà đoàn xe tăng của Liên Xô, chở quân cọng sản Bắc Việt, mới bon bon
chạy được trên đoạn chót của đường ṃn HCM, là đại lộ Thống Nhất-Sài G̣n,
rồi ủi sập hai cổng sắt để vào dinh Độc Lập, trống trơn không có pḥng
thủ, lính gác.
Sài G̣n hai mươi năm dưới chế độ VNCH, gần như lúc nào cũng
có biểu t́nh. Thế nhưng trong ngày “ vinh quang của đảng-bác “, một cơ
hội vàng ṛng để người miền nam tha hồ xuống đường hoan hô ḥa b́nh, ăn
mừng.Tuy nhiên mọi điều xảy ra lại hoàn toàn trái ngược, chứng tỏ người
miền nam không phải ai cũng hồ hởi tin hay thân cộng, như một số báo chí
thời đó đă xướng. Theo hằng trăm nhà báo ngoại quốc có mặt hôm đó, trong
số này có nhiều người thân cộng, cho biết : “ trưa 30-4-1975, khi quân
Bắc Việt vào Sài G̣n, đă không có cảnh người thủ đô hàng hàng lớp lớp,
túa ra đường, miệng la cờ phất.. như họ từng làm qua nhiều biến cố trong
quá khứ. “.Nói chung chỉ có cán bộ đảng và SD304 khăn đỏ tân lập ra chào
đón quân ta về, c̣n dân chúng Sài đô lớp th́ chạy trối chết theo chân Mỹ
đi ngoại quốc, số khác lo chôm đồ .. nên có ai rănh để mà biểu t́nh,
xuống đường như đảng mong đợi.
Sau đó Hà Nội cho thu lượm hài cốt cán binh bộ đội đă chết
trên đường ṃn, tập trung làm nghĩa trang Trường Sơn, tại xă Gio An,
quận Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. C̣n Tỉnh Uỷ B́nh-Trị-Thiên th́ tổ chức
tour du lịch, để du khách trong và ngoài nước tới thăm mấy cái xác xe
tăng Mỹ, cây cầu treo Dakrong do công binh Cu Ba làm tặng và đồi
Hambuger Hill.. Riêng đường Trường Sơn tây th́ bỏ hoang hoàn toàn và mới
đây Lào cho phép Trung Cộng trùng tu, nối liền xa lộ Vân-Nam-Bắc Trung
Lào mà tương lai con đường này sẽ thông tới hải cảng Kompong Som của
Kampuchia, như năm xưa Bắc Việt đă làm.
Nay ngồi ngẫm nghĩ, mới thấy nhà văn Xuân Vũ viết “ Đường đi
tới mà không tới “ là đúng sự thật. Bổng thương nhớ biết bao cho bạn bè
trong QLVNCH, đă ngă gục;
‘ trăng chiến khu năo nùng sầu vạn kỹ
núi ngh́n năm quên tuổi đứng cô đơn
đoàn quân xưa hào khí ngút mây vờn
trời quái ác làm vỡ tan tận tuyệt
.. đây c̣n có nhiều bạn bè Phan Thiết
đă vùi thây trong rừng lạnh tây nguyên
họ bây giờ là những cánh chim đơn
hót ảo năo nơi lũng đèo khe núi.. ’ ’ ’
Xóm Cồn
Hạ Uy Di
Cuối Năm
2013
Mường
Giang
|
Trần
Gia Phụng: Sách Chiến tranh Việt Nam 1960-1975

Sách giá 25 Mỹ kim, đă có bán ở các hiệu sách. Thêm chi tiết, xin
liên lạc với tác giả qua e-mail: trangiaphung2011@yahoo.com.
|