Mường
Giang
NGÀY 30-4-1975,QLVNCH
BUÔNG SÚNG THEO LỆNH TT DƯƠNG VĂN MINH
NHƯNG KHÔNG ĐẦU HÀNG VIỆT CỘNG
Từ chiều 29 cho tới trưa ngày 30-4-1975, súng đủ loại lớn nhỏ
đă bắt đầu nổ vang khắp Sài G̣n. Kinh khiếp hơn hết là các loại bích
kích pháo B40-41, hỏa tiễn 122 ly, cứ b́ bỏm liên tục, rót xuống phi
trường Tân Sơn Nhất và các vùng đông dân lân cận.
Rốt cục chỉ có mặt nhựa ở phi đạo bị đan làm xoáy tung mà thôi.
Nơi nơi bôn hướng, cây cối, dây điện, gạch vôi và thân xác của những
người lính quèn lúc đó, vẫn c̣n ở lại để pḥng thủ cái phi trường trống
không, chập choạng, ngả nghiêng thảm thê theo làn đạn địch. Ánh lửa hồng
từ các đám cháy, quyện với mùi khói khét và sơn vôi gạch vụn, theo gió
bốc mùi vào các ô cửa kính bị vỡ v́ mănh đạn bay lạc. Trong Viện Quốc
Gia Nghĩa Tử, nằm cạnh khu nghĩa trang Thánh Tây và phi trường, trên
đường Vơ Tánh, là nơi tạm trú của mấy trăm gia đ́nh di tản thuộc các Ty
Cựu Chiến Binh từ Miền Trung chạy vào. Mọi người ai cũng đang co rúm
giữa bốn bức tường mỏng manh loang lổ đan, nằm ngồi trên nền xi măng hay
các bàn ghế học tṛ lạnh lẽo, đói khát. Lũ con nít thiếu nước, thiếu sữa
nên la khóc inh ỏi.
Lúc đó trên đường Vơ Tánh từ cổng chính của Bộ Tổng Tham Mưu
gần ngă ba Trương Tấn Bửu chạy tới ngă tư Bảy Hiền, xa nh́n ngút mắt, có
các đám cháy lớn và nhiều quân xa chở lính cũng như thiết giáp đang dồn
dập di chuyển. Khói lửa, điêu linh và chết chóc, đă được chính người
miền Nam , qua cái rổ tự do dân chủ, ḥa hợp dân tộc, để rước cọng sản
đệ tam quốc tế Hà Nội, mang từ Liên Xô và Trung Cộng, vào tận đất Sài
G̣n thơ mộng hiền ḥa, vô ưu, vô tâm và vô trách nhiệm.
Trong nổi câm nín của những ngày Việt Nam sắp mất nước, đất
trời như cũng cảm thông chia sớt với thân phận của một dân tộc nhược
tiểu, bị chính đồng bào ḿnh, qua nhân danh lănh tụ, đem bán đứng cho
các thế lực ngoại nhân, trong đó có đế quốc Tàu đỏ, là kẻ thù ngàn đời
măn kiếp của dân tộc Việt. Bởi vậy bốn bề chỉ thấy cảnh tượng mông mênh
sầu thảm, qua cơn mưa hè đầu mùa sụt sùi lệ mắt. Trong góc pḥng, có
chiếc máy thu thanh của ai đó mở suốt từ đêm qua, nhưng âm thanh tuyệt
nhiên vắng ngắt , lâu lâu phát ra những tiếng gió sè sè lăng xẹt.
Giữa giờ thứ 25 chết chóc đang chực chờ, bổng thấy thèm những
giọng ca thương lính thuở nào, của những nam nữ ca sĩ phong lưu dỏm dáng,
trắng trẻo no tṛn, với bộ đồ trận rằn ri, luôn c̣n nguyên nếp gắp và
mùi thơm vải. T́nh nhất là trên túi aó có lúc lắc chùm huy chương đủ
loại, cũng như các phù hiệu của những binh chủng dữ dằn như Nhảy Dù,
TQLC, BĐQ, Lôi Hổ.. Cũng thấy nhớ tới những bài diễn văn bốc lửa, đượm
t́nh mến nước yêu dân của các đấng nguyên thủ, chính khách, lănh tụ,
cha-thầy, kể cả các trí thức khoa bảng của Sài G̣n. Rồi những cuộc biểu
t́nh chống chính phủ, chống tham nhũng, chống đàn áp tôn giáo, báo chí
đến nỗi hàng trăm kư giả bị khủng bố bốc lột gần trần truồng chịu đói
lạnh không nổi, đành phải đi ăn mày để có được tự do ngôn luận như các
đồng nghiệp đang sống ở Hà Nội, trong thiên đàng xă hôi chủ nghĩa, cái
ǵ cũng có như ‘ nước đá ‘ xài không hết phải phơi khô để dành..
Nhưng giờ này họ ở đâu ?, v́ hôm qua c̣n thấy chường mặt đủ
trên đài truyền h́nh hay báo chí, hùng hổ phun bọt mép, khua cả tay chân
quả đấm đ̣i này nọ, để có thực quyền đối mặt với mấy trăm ngàn bộ đội
miền Bắc, đang lăm lăm súng đạn, mả tấu, để phanh thây xé xác đồng bào.
Họ nói có quyền mới có ḥa hợp hoà giải,mang lại ḥa b́nh cho đất nước
và trên hết người Việt không cần phải bỏ nước ra đi, để phải chết v́
thèm mấm tôm cà pháo nơi xứ người.
Tất cả gần như chạy hết rồi, bỏ lại đồng bào thân yêu , lính
tráng đồng đội đang c̣n tử chiến với giặc khắp chiến trường, các thương
bệnh binh đang rên la trong quân y viện và mảnh đất Sài G̣n ba trăm năm,
trong cơn hấp hối :
1- Sài G̣n, những phút giờ hấp hối:
Hai mươi năm chinh chiến, bao giờ cũng vậy, tới lúc cuối cùng
chờ chết, vẫn là người lính trận và đồng bào nghèo, không có phương tiện
để vượt thoát khỏi cảnh bom đạn. Lính chết thật oan khiên v́ chiến đấu
trong đơn độc, không có đồng minh cũng như đồng đội yểm trợ, v́ vào giờ
thứ 25, đâu có ai ngu như người lính VNCH, ở lại chết để không có tiền
tử tuất, kể cả chiếc quan tài vùi thây đời lính trận. Biết nghĩ như vậy,
những ai c̣n sống sót tơí ngày nay, phải nhỏ một giọt nước mắt, dù muộn
màng để cảm ơn họ. Lính chết oan khiên chẳng những ngoài chiến trường
khi phải đối mặt với kẻ thù hung ác, mà c̣n chết lăng nhách nơi hậu
phương bởi những cái lưỡi tắc kè xanh xanh đỏ đỏ, giờ này nh́n lại cũng
đỏ đỏ xanh xanh, đâu có thấy đổi màu.
Người lính Miền Nam bi hùng là thế đó, như vậy làm sao bảo họ
phải chiến thắng khối cọng sản đệ tam quốc tế, trong đó có Liên-Xô và
Trung Cộng ? Người lính đă ở lại tới giờ phút cuối cùng vào trưa ngày
30-4-1975, đă là anh hùng thử hỏi có quân đội nào anh hùng hơn, kể cả
quân Pháp, Đức, Anh trong Thế chiến 2.
Sau khi Hoa Kỳ cùng Bắc Việt đồng thuận ngụy tạo cuộc ngưng
bắn bịp vào tháng 2-1973, chấm dứt sự hiện hữu của Mỹ tại chiến trường.
Cũng từ đó, QLVNCH bị đem con bỏ chợ, chiến đấu trong thiếu thốn, thiếu
cấp chỉ huy trên thượng tầng, thiếu đạn dược, thuốc men, xăng nhớt, các
quân dụng khiến cho nhiều phi cơ, chiến xa phải nằm ụ v́ không có cơ
phận sửa chữa hay thay thế. Tóm lại mọi sự đều do người bạn đồng minh
Hoa Kỳ tạo ra, như cắt quân viện, bội ước lời thề ‘ một đỗi một ‘ được
chính siêu cường kư nói hứa hẹn bằng giấy trắng mực đen. Trong khi đó
th́ Bắc Việt, từ Hồ Chí Minh tới Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng.. đă
đem mănh giang sơn gấm vóc của tiền nhân, cầm bán thế chấp cho đệ tam
cọng sản, nên được cả khối như Liên Xô-Trung Cộng, Đông Âu, Bắc Hàn, Cu
Ba, các đảng cọng sản Ư, Pháp, Mỹ và những thành phân ăn cơm miền nam
lại theo VC miền bắc, giúp đỡ hết ḷng, từ cây kim hột gạo, cho tới bom
đạn, tăng, máy bay, tiền bạc và những cái lưỡi tắc kè đỏ đỏ xanh xanh
đảo lộn sự đời. Tệ nhất là lũ hề hữu danh vô thực, trong cái gọi là Liên
Hiệp Quốc, lúc nào cũng bưng bợ Hà Nội, như muốn đổ dầu vào biển lửa
thống hận trùng hằng tại Miền Nam.
Không chịu nổi cái cảnh ứa gan, hiếp người ngă ngựa, nhà bỉnh
bút quân sử thế giới lương thiện và nổi tiếng là Louis A Fanning, đă
phải viết lời chửi Mỹ : ‘ Sau hiệp định Paris 1973, hơn 300.000 bộ đội
cọng sản quốc tế, được người Mỹ bỗng dưng tự tác cho ở lại trên lănh thổ
của nước khác. Đó là Miền Nam VN, một quốc gia độc lập, có chủ quyền,
quốc hội và không hề là thuộc địa hay các tiểu bang của Hoa Kỳ. Trong
lúc đó, VNCH là một đồng minh với Mỹ từ khuya , lại bị chính Mỹ phản bội,
lường gạt, cắt viện trợ và sỉ nhục mọi điều. Đúng là thái độ của bọn con
buôn chính trị, hèn chi người Mỹ đă bị thế giới tự do coi thường, v́ đă
bội tín với nhiều đồng minh của ḿnh.’
Viết về t́nh trạng đồng bào VN, sống giữa cảnh chết chóc của
chiến tranh mạt kiếp, đáng lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy ra nếu không có đảng
cọng sản Hà Nội, khiến cho đất nước sau khi Nhật đầu hàng, thay v́ sẽ có
ḥa b́nh như nhiều nước trong vùng Á Châu, lúc đó cũng đang là thuộc địa
của bọn thực dân da trắng. Để diễn tả sự bất hạnh này, nhà báo người Tây
Đức Une Siemon Netto, đă viết trong tờ International Herald Tribune : ‘
giờ th́ mọi người đă biết rơ cái thực chất cách mạng cứu nước, mà cọng
sản Hà Nội luôn dùng làm chiêu bài, để có cớ gây nên một cuộc chiến vô
luân, nồi da xáo thịt. Tiếc thay trước tháng 5-1975, nhiều trí thức khoa
bảng và nhà báo Tây Phương, đă biết rơ cọng sản đệ tam quốc tế gây chiến
tranh chỉ v́ ư thức hệ và trên hết chúng rất dă man tàn bạo. Nhưng v́ họ
ích kỷ, hám danh và trên hết nhiều kẻ đă táng tận lương tâm, nên muối
mặt, bẻ cong ng̣i bút, viết láo sai sự thật, để đầu độc môi người, nhất
là dân chúng Hoa Kỳ, đang có nhiều người thân tham dự cuộc chiến thần
thánh, bảo vệ tự do cho nhân loại tại Đông Dương, đang bị Đệ tam cọng
sản quốc tế tàn sát nhuộm đỏ.’. Hành động vô lương của bọn bồi bút, đă
gây nên nhiều nổi oan khiên tội nghiệp, khiến bao oan hồn lương dân vô
tội, đă bị bộ đội cọng sản miền bắc tàn sát dă man trong tết Mậu Thân,
nhất là tại Huế. Rồi mùa hè đỏ lửa 1972 trên đại lộ kinh hoàng, từ Đông
Hà về Huế, trên quốc lộ 14 Dakto-KomTum, đường 13 An Lộc-Bến Cát và đoạn
đường số 1, từ Tam Quan-Hoài Nhơn-Phù Mỹ về Qui Nhơn, qua những Lai
Giang, sông Côn, sông Cả.. Nhưng bi thảm nhất cũng vẫn là những ngày
cuối cùng di tản tại Vùng I, vùng II trên đường số 7, dân chúng lánh nạn
gục chết như ra v́ đạn kích pháo của giặc, không cần biết hay thương hại
cho mạng người lá rụng, dù những mạng sống đó vốn cùng bộ đội VC, chung
cháu Lạc con Hồng. Tóm lại tất cả đều vô lư, đă khiến cho nhiều nhà báo
ngoại quốc sau này, phải kêu trời không ngớt, v́ tự vấn lương tâm khi họ
đả vô t́nh hay cố ư, câm nín trước những thảm trạng của nam VN. Trong
lúc đó vụ Mỹ Lai (Quảng Ngăi), do chinh Hà Nội giật dây đạo diễn, đẩy
dân lành vô tội ra làm bia đỡ đạn cho lính Mỹ, th́ được bao chi Tây
phương làm lớn chuyện, tuyên truyền không công cho Hà Nội, trong suốt
cuộc chiến.
Sài G̣n đă bắt đầu xáo trộn từ tháng 3-1975, lúc miền Trung bị
mất qua quyết định sai lầm rút bỏ quân đoàn I và II của TT.Nguyễn Văn
Thiệu, Thủ Tứớng Trần Thiện Khiêm và Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham
Mưu trưởng QLVNCH lúc đó. Ngày 21-4-1975, Tổng Thiệu qua áp lực của Mỹ,
muốn thay ngựa theo ư của cọng sản Bắc Việt, để ḥa hợp ḥa giải, nên
ông phải tuyên bố từ chức tổng thống trong lúc đất nước nguy ngập, ngàn
cân treo chỉ mành và đă cùng Thủ tướng Khiêm, được Ṭa Đại Sứ Mỹ, đưa ra
khỏi Sài G̣n, tới Đài Bắc trong đêm tối bằng máy bay quân sự.
Việc bỏ nước ra đi của TT. Thiệu, khác với trường hợp của Thủ
Tứơng Khiêm hay Đại Tứớng Viên, v́ hai người này chẳng hề bị đe dọa hay
bắt buộc. Trái lại Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào giờ thứ 25 của VNCH
trong tháng 4-1975, giống như cái chết của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm ngày
2-11-1963, được quyết định bởi bàn tay của người Mỹ. Tổng Thống Diệm
không cho người Mỹ đem quân vào VN nên bị giết trong danh dự. TT Thiệu
khôn ngoan từ chức ra đi, nên được sống những ngày thừa nơi quê người,
chịu bia miệng nguyền rủa, v́ ham sống sợ chết, dù rằng con kiến cũng
muốn sống. Đó là sự thật của lịch sử, của thân phận nhược tiều VN, mà
các tài liệu Mỹ đă hé mở cho mọi người cùng đọc, trong vài năm trước đây
và c̣n được lưu trữ phổ biến khắp mọi văn khố, kể cả VC. Ngoài ra, cũng
theo sử liệu, chính Tổng Thống Trần Văn Hương, muốn người Mỹ đem Tổng
Thống Thiệu ra khỏi nước tức tốc, mà theo TT Hương, đó là kỳ đà cản mũi,
nên ông ta không thể trị nước hay chống Cộng được.
Thương nhất là Cụ Trần văn Hương lúc đó, đă gần đất xa trời,
thêm mắt mũi kém, lại bị Mỹ bắt làm Tổng Thống VNCH, theo điều kiện của
Bắc Việt. Nguyên thủ như vậy, nên miền Nam bị mất là cái chắc, dù sớm
hay muộn cũng thế thôi. Sau đó lại màn thay ngựa cuối cùng, để Dương Văn
Minh danh chánh ngôn thuận, kết thúc cuộc chiến từ đầu cũng do VC sắp
đặt và cuối cùng cũng do VC quyết định, qua miệng kẻ cầm quyền của miền
Nam, dù chỉ có hai ngày làm vua ngắn ngủi.
VNCH đang lúc lâm nguy v́ thù trong giặc ngoài. Cả triệu quân,
công, cán cảnh.. lúc đó đang xă thân, dùng xác người thay súng đạn Mỹ,
làm công sự cản xe tăng hứng đạn pháo của cọng sản khắp mọi nẻo đường
dẫn vào thủ đô, th́ cũng lúc đó những sâu bọ nơi hậu trường chính trị,
hăng say toắc mồm, áo thụng vái lạy ông, bày ra những tṛ hề tác tệ, để
tự phong quan gắn chức, làm nản chí những người lính đang xả thân nơi
chiến trường, bắt QLVNCH phải tan hàng ră ngũ trong tức tủi oan khiên và
cuối cùng làm cho cả nước phải sống đọa đày thương đau, trong cùm gông
xă nghĩa từ ấy cho tới bây giờ, qua 41 năm đoạn trường máu lệ,vẫn không
hề thay đổi, vẫn không có tự do dù chút tự do để nói lời chân thật trong
đáy hồn ḿnh.
Nhưng dù gặp khó khăn nguy hiểm, các lộ quân c̣n lại của VNCH
vẫn cản nổi quân xâm lăng Bắc Việt, trên khắp các tuyến đường dẫn vào
Sài G̣n. Chính hành động phi thường này, nên dù VNCH không c̣n nửa, vẫn
được thế giới ngợi khen và kính phục, như Peter Kohn đă viết trên tờ the
Wall Street Journal :’Quân đội VNCH là một quân đội can đảm và chiến đấu
lăo luyện. Quân đội ấy đă chiến đấu giỏi trên nhiều địa danh, mà người
Mỹ hoặc thế giới biết hay chưa biết tới. Quân đội ấy đă hào hùng ngạo
nghễ với địch , qua hàng ngàn chiến trận, tiền đồn hẻo lánh hiu hắt.
Quân đội ấy không được trang bị như quân Mỹ hay bộ đội cọng sản Hà Nội.
Thế nhưng từ khi Hoa Kỳ rút quân về nước hay lúc đầu quân Mỹ chưa vào VN,
vẫn hiên ngang chiến đấu trong suốt 20 năm khói lửa, gần như bảo toàn
trọn lănh thổ của cha ông, từ phía bên này vỹ tuyến 17 cho tới Cà Mâu,
đến khi bị Việt gian đâm sau lưng, VC bắn trước mặt, mới đành để mất non
sông vào tay đệ tam cọng sản quốc tế’.
Cũng v́ phải chiến đấu khắp các mặt trận, nên đă có hằng trăm
ngàn người lính phải chết, hằng triệu thương phế binh, cô nhi quả phụ.
Tới giờ phút cuối cùng, đă biết nước sắp mất, chết chỉ thêm uổng mạng
nhưng họ vẫn hiên ngang chiến đấu tại Khánh Dương, Phan Rang, Phan Thiết,
Xuân Lộc, Long An, Tây Ninh, Củ Chi , Biên Ḥa và Sài G̣n. Tất cả đều là
những chiến tích để đời và lưu danh thiên cổ trong ḍng sử Việt
Cuối cùng trong giờ thứ 25, QLVNCH đă xử sự một cách mă thượng
anh hùng. Thay v́ dùng vũ lực bắt trọn Toà Đại Sứ và Cơ Quan Dao làm con
tin, như Iran đă từng làm, để gây áp lực, bắt Hoa Kỳ phải giữ lời hứa,
dùng B52 đuổi bộ đội cọng sản rúr về phía bên kia vỹ tuyến 17 như Hiệp
định Geneve năm 1954 và 1973 qui định. Nhưng họ vẫn không làm như vậy,
vẫn tôn trọng kỷ luật quân đội, biểu lộ nét hào hùng văn hiến ngàn đời
của một dân tộc có văn minh, văn hóa VN, khi cố gắng pḥng thủ và tiếp
tục chiến đấu khắp nơi, giúp cho Mỹ và những đồng đội, cấp chỉ huy hèn
nhát, bỏ chạy khỏi nước một cách an toàn, trước khi giặc Hồ vào Sài G̣n
trưa 30-4-1975. Họ đáng được ca tụng và kính phục ‘.
Chính hành động phi thường và thái độ mă thượng này mà sau
tháng 5-1975, chính phủ và quốc hội Hoa Kỳ mới cho phép người Việt vào
đất Mỹ, để phần nào trả lại chút Ân T́nh cho QLVNCH. Chúng ta đừng quên
điều này dù muốn hay không muốn chấp nhận sự thật .
2- QLVNCH tử chiến trong giờ thứ 25:
Sau khi được 400.000 quân Trung Cộng pḥng thủ đất Bắc, cọng
sản Hà Nội xua toàn bộ quân đội xâm lăng miền Nam. Mai mỉa nhất là lúc
mà Dương Văn Minh cùng nội các mới, hy vọng được ḥa hợp ḥa giải với
VC, để chúng chia chức nhín cho một chút quyền trong cái chính phủ liên
hiệp, nếu có cũng chỉ là thứ bù nh́n, như MTGPMN được dựng lên, từ
12-1960 tới tháng 5-1975. Đây chính là thời điểm , mà Bắc Bộ Phủ gọi là
giờ G, ngày N, để tổng tấn công chiếm Sài G̣n. Đó là lúc nửa đêm
29-4-1975, thời gian Hà Nội qui định cho tất cả các cánh quân, từ năm
hướng tiến vào thủ đô. Đây cũng là thời gian qui định cho bọn đặc công,
biệt động nằm vùng, chui ra khỏi các hang ổ để gây hỗn loạn trong thành
phố, chỉ đường, bắt tay cho bộ đội miền Bắc.
Tại Mặt Trận Miền Đông Nam Phần, từ sau ngày SĐ18BB và Lữ Đoàn
1 Dù, rút lui an toàn về Bà Rịa, Quân Đoàn III đă tái phối trí lại các
pḥng tuyến mới vào những ngày cuối tháng 4-1975.
V́ SD18BB của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo bị thiệt hại nặng nề sau
12 ngày ác chiến với cọng sản Bắc Việt. Ngoài Trung Đoàn 48/18 của Trung
Tá Công, tương đối quân số c̣n nguyên vẹn, các Trung Đoàn 52/18 của Đại
Tá Ngô Kỳ Dũng, tại Mặt Trận Ngă Ba Dầu Giây-Túc Trưng, thiệt hại hơn
80% quân số và Trung Đoàn 43/18 của Đại Tá Lê Xuân Hiếu, tử thủ trong
thị xă Xuân Lộc, thiệt hại trên 30% nhất là Tiểu Đoàn 2/43/18 của Thiếu
Tá Nguyễn Hữu Chế, là đơn vị cuối cùng rời Long Khánh. Do đó sau khi
chỉnh đốn lại đơn vi, SD18BB được giao trách nhiệm pḥng thủ tuyến phía
đông Sài G̣n, từ kho đan thành Tuy Hạ chạy dài tới Tổng Kho Long B́nh.
Riêng BCH Hành quân của SD18BB đặt tại căn cứ Hải Quân Cát Lái. Pḥng
tuyến của SD 18BB tiếp giáp với vị trí pḥng thủ của Lực lượng Nhảy Dù,
Trường Thiết Giáp và Bộ Binh Thủ Đức.
Tỉnh Phước Tuy và Đặc Khu Vũng Tàu, trong đó có quốc lộ 15
được Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, SD3BB phối họp với các lực lượng DPQ + NQ của
Phước Tuy và B́nh Thuận di tản từ miền Trung vào. Thiếu Tướng Bùi Thế
Lân, tư lệnh SDTQLC kiêm Tổng trấn đặc khu Vũng Tàu. Riêng SD3BB từ
vùng1CT di tản vào, quân số kể luôn SD1BB cộng được hơn 1000 người, lập
thành 2 tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 2/3 và 56/3 vẫn do Thiếu tướng Nguyễn
Duy Hinh làm tư lệnh. SD3BB được tăng cường thêm Chi đoàn 2/15 Thiết Kỵ
và Lữ Đoàn 1 Dù, bảo vệ QL15, thị xă Bà Rịa-Vũng Tàu.
Tỉnh Biên Ḥa và phi trường do Lực lượng III xung kích của
Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, được tăng phái thêm 2 Lữ đoàn 147 và 258
TQLC pḥng thủ. Từ ngày 28-4-1975, để bảo vệ thành phố Biên Ḥa, Liên
Đoàn 81 Biệt Kích Dù bố trí trong phi trường giữ mặt bắc Bộ tư Lệnh
QDIII. Một TD/TQLC thuộc Lữ Đoàn 258 bảo vệ BTL.QDIII, các thành phần
c̣n lại của Lữ Đoàn, pḥng thủ mặt nam BTL. Quân Đoàn. Lữ Đoàn Nhảy Dù
giữ hai Cầu Mới và Sắt cùng các nút chận vào thị xă. Riêng Lực Lượng III
Xung kích gồm Chiến Đoàn 315 pḥng thủ từ Ngă ba Hố Nai đến Ngă tư Ḷ
Than. Chiến đoàn 322 giữ từ Ngă tư Ḷ Than tới cổng phi trường Biên Ḥa
và Chiến đoàn 318 từ phi trường tới Cầu Mới.
Về phía bắc Sài G̣n có SD25BB của Chuẩn tướng Lư Ṭng Bá được
tăng phái thêm hai Liên Đoàn 8 và 9 Biệt Động Quân, trách nhiệm Tây Ninh
và Củ Chi-Hậu Nghĩa. Mặt trận phiá bắc tỉnh B́nh Dương là trách nhiệm
của SD5BB của Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, kể cả Trung Đoàn 8/5 của Đại Tá
Nguyễn Bá Mạnh Hùng tăng phái cho Lực Lượng III Xung kích của Tướng Khôi
ở Hưng Lộc, vừa được trả về. Pḥng tuyến phía nam Sài G̣n là Long An, có
SD22BB ở B́nh Định di tản tới, phối hợp với Lực Lượng 99 Tuần Thám Ngăn
Chận của Hải Quân và DPQ+NQ.Long An, từ lâu nổi tiếng là kiêu dũng thiện
chiến, không kém ǵ quân chủ lực. Như vậy trừ ba SD7,9 và 21BB của QDIV
phải bảo vệ lănh thổ của các tỉnh thuộc Vùng 4/CT. Phía VNCH chỉ c̣n lại
: sáu Sư Đoàn gồm SD5,18,22,25 bô binh + Hai Lữ Đoàn 1 và 4 Nhảy Dù + Sư
đoàn TQLC + Lực Lượng III Xung Kích +Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù +4
LiênĐoàn BDQ + DPQ và NQ + 625 chiến xa đủ loại và 400 pháo, tất cả
chừng 240.000 người, để bảo vệ Sài G̣n. Trong khi đó VC tung vào 5 lộ
quân với quân số trên 280.000, gồm 15 Sư đoàn BB + 5 Lữ đoàn biệt lập +
4 Lữ đoàn thiết giáp + 6 Trung Đoàn Đặc công.Tất cả được trang bị đầy đủ
với các vũ khí bom đạn hiện đại, không thua ǵ quân đội Mỹ.
Từ chiều ngày 29-4-1975, hai Bộ Tư Lệnh Không quân và Hải quân
VNCH đă di tản chiến thuật, kể cả Tướng Nguyễn Văn Toàn (Tư lệnh QDIII)
và Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng TMT từ chức. Do đó, tổng thống mới nhậm
chức là Dương Văn Minh, cử Tướng Vĩnh Lộc lên thế chức Tổng Tham Mưu
Trưởng. Đến tối cùng ngày, Tướng Lộc ra lệnh cho SD18BB về bố trí từ
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà, tới Thủ Đức.
Từ đầu tháng 4-1975, trường Bộ Binh Thủ Đức đă dời về Long
Thành-Biên Ḥa, đông nghẹt sinh viên các khóa, trong đó có hai quân
trường từ Đà Lạt di chuyển về là Trường Vơ Bị và Chiến Tranh Chính Trị.
Lúc 8 giờ tối ngày 27-4-1975, trường Bộ Binh lại có lệnh di chuyển trở
về trường củ ở Thủ Đức. Tới 8 giờ sáng ngày 30-4-1975, có bốn T54 của
cọng sản Bắc Việt từ Xa Lộ Biên Ḥa, tấn công trường, bị Pháo Binh 105
bán trực xạ cháy 3 chiếc tại chỗ. Nhưng chiếc c̣n lại đă nhập dược vào
trung tâm, sau khi thoát được các tầm đạn M72 của sinh viên, bắn tử
thượng Trung Tá Ông văn Tuyên, Trung sĩ I Nhân và 5 sinh viên, cùng 10
người bị thương, trong số này có Trung Tá Vương Bá Thuần. Cuối cùng
chiếc tăng trên ḅ ra khỏi trường và bi M72 bắn đứt xích, nằm tại Niệm
Phật Đường cạnh Chợ Nhỏ, nhưng vẫn tác xạ dữ dội vào trường. Giờ chót,
có hai sinh viên Thủ Đức, chưa được gắn Alpha, t́nh nguyện mang lựu đạn
lân tinh loại xuyên phá, mới tiêu diệt được chiếc T54 này.
Cũng tại Long B́nh vào sáng ngày 29-4-1975, Tiểu đoàn 43 thuộc
Liên Đoàn 4 BDQ, do Thiếu Tá Xẻn làm TDT, được lệnh của Biệt Khu Thủ
Đô,tăng phái pḥng thủ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Từ 2 giờ 30
chiều cùng ngày, VC đă về tới Trung Chánh-Hóc Môn, sau khi chiếm được
Căn cứ Đồng Dù của SD25BB, căn cứ Pháo binh Ḷng Tảo và đánh tan Trung
Đoàn 46/25BB trên QL số 1 từ Củ Chi về Tân Phú Trung. Lúc đó Trường Quân
Vận đối diện với TTHL Quang Trung cũng đă mất, nên Chiến xa của VC bắt
đầu tấn công trung tâm, nhưng không ngờ trong đó không phải chỉ có tân
binh quân dịch, mà c̣n sự hiện diện của một tiểu đoàn BDQ vơí hơn 500
tay súng, suốt cuộc chiến, đă cùng với các TD41,42,44 là những cọp ba
đầu rằn tung hoành như chỗ không người trong mật khu śnh lầy của Vùng 4
Chiến thuật. Tối 29-4-1975, qua hệ thống truyền tin của TD43BDQ, mới
biệt BTL Biệt Khu Thủ Đô đă bỏ chạy, chỉ c̣n các sĩ quan cấp uư ở lại
nhưng BCH.Biệt Động Quân và Tướng Đổ Kế Giai vẫn c̣n nguyên vẹn tại Trại
Tô Hiến Thành. Bên trong chiến hào của TTHL Quang Trung, cũng như suốt
đoạn đường từ ngă ba Trung Chánh- Hóc Môn, về tới Ngă tư Bảy Hiền, các
đơn vị kiệt hiệt nhất của QLVNCH như BDQ, Biệt Cách Dù và Nhảy Dù đang
đợi chờ một trận đánh cuối cùng dũng liệt như SD18BB, LD1ND,TD82BDQ và
DPQ Long Khánh, tại Xuân Lộc, th́ trưa 30-4-1975 bị Dương Văn Minh ban
lệnh buông súng ră ngũ, một cách tức tủi đoạn trường.
5 giờ chiều ngày 29-4-1975, các mặt trận, lính vẫn chiến đấu
không ngừng nghĩ. Tại Biên Ḥa, các đơn vị TQLC, Biệt Cách Dù và các
Chiến Đoàn thuộc Lực Lượng III Xung Kích, đă ngăn chống VC tại các pḥng
tuyến vô cùng đẫm máu kinh hoàng.
Tại BCH.Thiết Giáp trong trại Phù Đổng, cũng là nơi đặt tạm
BTL.QDIII từ Biên Ḥa di tản về, cũng như Trung Tâm Hành Quân /BTTM/QLVNCH
gần như không c̣n đại bàng để nhận tin chiến trường và quyết định lệnh
lạc. Cho tới 22 giờ 30 đêm 29-4-1975, Phế tướng Nguyễn Hữu Có, người vào
năm 1965 bị Nguyễn Cao Kỳ lột chức và bắt ở lại Hồng Kông không cho về
nước, cách đó vài giờ, vừa được TT.Dương Văn Minh gắn cho cái lon Trung
Tướng, lên máy ra lệnh cho SD18BB của Thiếu Tướng Đảo và LL3XK của Tướng
Khôi, cố gắng giữ yên pḥng tuyến trong đêm 29-4-1975, để rạng sáng ngày
30-4-1975 sẽ có ḥa b́nh v́ cọng sản Bắc Việt đă chịu ḥa họp hoà giải
ḥa chung máu lệ với TT. Minh và lực lượng thứ ba đối lập.
Nhưng 23 giờ 45 đêm 29-4-1975, Bắc Việt đă không ḥa hợp mà
lại tấn công dữ dội bằng bộ binh và chiến xa khắp các pḥng tuyến tại
Biên Ḥa. Hai bên gần như cận chiến với khoảng cách chừng 10-15m, nhất
là tại pḥng tuyến do quân Dù, TQLC và Chiến Đoàn 315 của Trung Tá Đổ
Đức Thảo có chiếnxa M48 tham chiến.
2 giờ sáng ngày 30-4-1975, pḥng tuyến SD18BB của Tướng Đảo
tại Long B́nh bị VC tràn ngập, quân ta từ Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa
phải rút về Thủ Đức.
Riêng Chiến Đoàn 3, thuộc Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù của
Thiếu Tá Phạm Châu Tài, quân số hơn 1000 người, từ Biên Ḥa được điều
động về bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu từ 5 giờ 30 ngày 26-4-1975. Bộ Chỉ Huy
Chiến Đoàn đóng tại Building số 1, đối diện vối Trại Vơ Tánh. Các Biệt
đội 811 của Đại Uư Lâm đóng trong Lục Quân Công Xưởng. Biệt đội 812 của
Đại Uư Ánh đóng ở giữa cổng sau TTM và Tổng Y Viện Cộng Ḥa. Biệt đội
813 của Đại Uư Thạch rải quân từ Ngă Tư Bảy Hiền tới Trại Phi Long của
Nhảy Dù và Biệt Đội 815 của Đại Uư Lợi là lực lượng trừ bị của Chiến
Đoàn, đóng trước cổng Bộ TTM.
Từ ngày 28-4-1975, các đại bàng ở Bộ TTM, Bộ Tư Lệnh QD3, Quân
Khu Thủ Đô.. từ Đại Tướng trở xuống đă di tản chiến thuật, nên coi như
không c̣n ai ra lệnh cho thuộc cấp dưới quyền. Về việc tên phi công nội
tuyến Nguyễn Thành Trung, dẫn đoàn máy bay của KQ.VNCH bỏ lại ở Phù Cát,
Phan Rang vào oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất, không bị Chiến Đoàn 3
Biệt Cách Dù bắn hạ, v́ đă tưởng là phe ta làm đảo chánh.
Chiều ngày 29-4-1975, tướng Vĩnh Lộc được TT.Minh cử làm Tổng
Tham mưu trưởng thay Cao Văn Viên, c̣n Nguyễn Hữu Có th́ gắn ba sao,
xưng là Tổng Tham Mưu Phó. Ngoài ra c̣n có VC nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh,
cũng được Dương Văn Minh gắn sao tướng, dù Có và Hạnh đă bị giải ngũ từ
lâu. Mới đây VC lại cho các tên hề Có, Hạnh và Triệu Quốc Mạnh làm cuộc
phỏng vấn cuội tại Sài G̣n, do bọn Việt gian hải ngoại từ Canada về thực
hiện, rồi đem phát trên đài để lừa bịp người Việt trong và ngoài nước,
một cách trơ trẽn v́ câu chuyện lăng xẹt của đám sâu bọ, từng làm xấu hổ
danh dự và thể thống của người lính VNCH năm nào.
Từ 6 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, VC pháo kích bừa băi hỏa tiễn
122 ly vào khu dân cư đông đúc, có mấy trái rớt xuống đường Vơ Di Nguy,
làm nhiều đồng bào thương vong. Các trái khác rơi vào ṿng thành Bộ TTM.
Trên các đường phố dẫn tới Đại Lộ Chí Lăng, chiến xa Bắc Việt đă xuất
hiện, bắn vào Bệnh Viện V́ Dân tại Ngă Tư Bảy Hiền nhưng bị Biệt Cách Dù,
dùng súng đại bác M90 ly không giựt, chỉ trong ṿng 15 phút, bắn cháy 6
chiếc T54, PT76 cùng với một khẩu pháo pḥng không có bánh xe kéo, với
nhiều đặc công bị chết, nằm rải rác từ Bảy Hiền tới Bộ TTM.
9 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, TT Dương Văn Minh ra lệnh cho
Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Dù, lúc đó c̣n đang tử chiến với VC, phải ngưng
đánh nhau, để chờ đầu hàng. Tuy nhiên nhiều toán không tuân lệnh, vẫn
tiếp tục bắn vào các đoàn xe của VC, sau đó tự tử tập thể bằng lựu đạn
vào giờ thứ 25. Riêng 2 Chiến Đoàn Biệt Cách Dù do Đại Tá Phan Văn Huấn
chỉ huy, sáng ngày 30-4-1975, từ Suối Máu rút về Nghĩa trang Quân Đội
Biên Ḥa, khi nghe lệnh Dương Văn Minh bắt đầu hàng, nên cũng ră ngũ tại
đây.
Khôi hài nhất là lúc mà người lính đang nối tiếp nhau ngă gục
khắp các chiến trường, để bảo vệ cho thủ đô Sài G̣n và cuộc di tản bằng
máy bay trực thăng của Mỹ, trên các mái nhà tại Cơ quan Dao và Ṭa Đại
Sứ, th́ gần hết tướng lănh bỏ chạy trước. C̣n Chính phủ Dương Văn Minh
vừa mới nhậm chức, th́ đă sai Nguyễn Văn Huyền vào Trại David, để thương
thuyết với giặc xin đầu hàng, nhưng bị Vơ Đông Giang làm nhục và bắt
giam luôn bọn Việt Gian Chân Tín, Châu Tâm Luân và Trần Ngọc Liễng, từ
chiều ngày 29-4-1975, khi vào làm sứ giả ḥa b́nh.
Trong cuộc di tản ra khỏi nước, ngoài người Mỹ c̣n có đủ mọi
thành phần lúc đó, từ quan tướng, trí thức, thầy cha, nhà báo, ca sĩ, mẹ
ḿn, đĩ điếm, gian thương Ba Tàu.. Nhiều tên vô liêm sỉ c̣n đem cả vợ con
ḿnh dâng cho Mỹ đen lẫn trắng, để đổi lấy chổ chạy trên máy bay ra khỏi
nước. Loại người này, giờ cũng chính là những tên đầu tiên, trở về nguồn
khi đi hết biển, để làm ăn hợp tác với VC. Tất cả đạp lên đầu lẫn nhau
để kiếm một chỗ chạy ra khỏi nước trốn cọng sản. Lúc đó không c̣n ai
thèm nghỉ tới tư cách, thể diện, trinh tiết hay ǵ ǵ nửa. Kỳ cục nhất
là những chuyên viên đối lâp, phản chiến, phá hoại và nói xấu chính phủ
VNCH, giờ phút cuối lại là những thành phần hăng hái chạy trốn nhiều và
trước hết. Bốn mươi mốt năm sau mới chợt hiểu, th́ ra họ chỉ có thể chũi
người quốc gia mà thôi. Với cọng sản, dù chỉ mới léng phéng mồm miệng,
không bị roi đ̣n thoi đấm, hay ăn mă tấu, vào tù, bị cột đá neo sông,
mới là chuyện lạ. Bởi vậy phải nhanh chân chạy trước ra ngoại quốc, để
được tiếp tục đối lập với người Việt tị nạn, lần nữa làm tôi mọi cho
cọng sản, dù rằng đă v́ chúng mà phải một lần chuốc lấy sự nhục nhă năm
nào.
Sài G̣n náo loạn khắp nơi, dân chúng ùn ùn kéo tới các ngân
hàng rút tiền kư thác. Các Ṭa Đại Sứ lần lượt đóng cửa, cũng như nhiều
Hăng Máy bay ngưng hoạt động v́ sợ họa lây. Ḥn Ngọc Viễn Đông như đă
chết vào những ngày gần cuối tháng 4-1975
Thế rồi 9 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, trong lúc mọi người đang
mê tỉnh trong cơn hấp hối của đất nước, th́ Dương Văn Minh v́ nghe lời
xúi dại của bọn thân Cộng như Lư Quư Chung, Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Hữu
Hạnh, nên lợi dụng chức vụ tổng thống tổng tư lệnh quân đội, ép QLVNCH
buông súng ră ngủ, trong khi tất cả c̣n đang tử chiến với giặc ngoài
biên đ́nh.
Hỡi ơi VN chỉ v́ một tên hám danh lừng khừng, mà cả một dân
tộc chịu cảnh lầm than nô lệ từ bốn mươi mốt năm qua và không biết tới
bao giờ mới thoát khỏi xích xiềng tù ngục. Tất cả đều là ư trời, là số
mệnh, là hậu quả tất yếu của một hậu phương miền Nam vô t́nh bạc nghĩa,
chỉ biết hưởng thụ cá nhân, nên chẳng bao giờ chịu chia xẻ nỗi đau cùng
cực của người lính, đă v́ họ mà vong thân hay tàn phế nữa đời.
Nhưng rồi giặc chiếm được nước, tất cả dân lính cùng chịu cảnh
tan tác phân ly không chừa hay bỏ sót một thành phần nào, kể cả những
người một thời theo giặc. Lính bỏ súng vào tù, dân không c̣n được lính
bảo vệ, nên bị đe dọa mạng sống và mất hết tự do kể cả quyền sống làm
người dân thường bên vệ đường.
Trưa 30-4-1975, bộ đội Bắc Việt hồ hởi tiến vào Sài G̣n. Người
người cùng cười dù đang thúi ruột, v́ lần đầu tiên được chạm mặt với rợ
Hồ, lù khù, ngô nghê. Nhiều chàng nàng cục mịch trong bộ đồ trận, với
nón cối, dép râu, y chang những con dă nhân trong sở thú. Vậy mà suốt
bốn mươi mốt năm qua, tháng tư nào cũng khoe là mùa xuân đại thắng, hay
huênh hoang nhận đại là quân đội nhân dân anh hùng.
Phút cuối vẫn c̣n một số đơn vị Dù, TQLC, BDQ, Biệt Cách Dù..
không thèm nghe lệnh của Dương Văn Minh. Họ chận đánh cọng sản Bắc Việt,
trên các đường phố Hồng Thập Tự, Thị Nghè. Tại Đại lộ Thống Nhất, lính
Dù và BDQ bắn M72 vào xe tâng VC khi chúng tiến vào chiếm Dinh Độc Lập.
Đúng 12 giờ 30 trưa ngày 30-4-1975, lá cờ vàng ba sọc đỏ của
quốc dân VN treo trên nóc Dinh Tổng Thống VNCH bị giặc tước bỏ. Dương
văn Minh và toàn bộ nội các có mặt tại dinh, bị bộ đội miền bắc, nhốt
giữ tại chỗ, dù từ lớn tới nhỏ, đă sùi bọt mép nịnh bợ ca tụng chúng.
Nhục nhă muôn đời là cả đám bị thu h́nh trước ống kính của hằng trăm nhà
báo ngoại quốc. Cũng vào giờ phút mà Dương văn Minh bị c̣ng tay gục đầu,
th́ tại Bộ Quốc Pḥng, Trung Tá Nguyễn văn Cung, thuộc SD18BB khi nghe
tin đầu hàng đă tự sát. Nhiều lính Dù cũng dùng súng M16 kết liễu đời
trai trước Tổng Cục Chiến Tranh Chính trị. Trong trại Hoàng Hoa Thám,
một toán lính Nhảy Dù, nắm tay làm thành ṿng tṛn, rồi mở chốt lựu đạn
để cùng chết tập thể. Một Đại Úy Cảnh Sát tự bắn vào đầu chết trước Quốc
Hội. Trong khi đó các tướng lănh Phạm văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê văn
Hưng, Lê nguyên Vỷ, Trần Văn Hai.. cũng quyên sinh khi thành mất. Đó là
những h́nh ảnh tuyệt vời, ngàn đời khắc sâu trong tâm khảm của người
Việt và những trang sử bất diệt của dân tộc.
Sài G̣n đă chết từ đó, dân chúng thành đô dửng dưng trước chủ
mới. Cùng lúc, có nhiều con khỉ trong sở thú, vừa được sổ chuồng, cổ
quàng khăn đỏ, tay phất cờ máu, trang bị súng đạn lượm được của lính bơ
bên vệ đường, chễm chệ trên các xe quân đội, tung tăng múa rối khắp
đường phố, cổ vơ, làm oai, hoan hô, đă đảo một cách lố bịch.
Trưa đó, 125 nhà báo ngoại quốc c̣n nán lại, đổ xô tới chiêm
ngưỡng những anh hùng cách mạng, mà từ năm 1960-1975, họ đă không ngớt
xưng tụng và tô son đánh phấn khắp thế giới không tiếc lời. Nhưng sự
thật đă làm té ngửa các trái tim thú vật, khi biết được tất cả chỉ là sự
tuyên truyền lừa bịp của miệng lưỡi cọng sản, mục đích để cho thế giới
có thành kiến không tốt và ghét bỏ VNCH. Có như vậy họ mới bỉ ổi ca tụng
một chiều cuộc xâm lăng miền Nam của Bắc Việt, mà không cần phải t́m
hiểu sự thật.
Từ đó, thế giới mới bắt đầu tỉnh ngộ và chịu viết về một sự
thật mà họ đă cố t́nh dấu diếm : ‘ Không có ai là người miền nam, tất cả
đều là bộ đội miền bắc, trong tập đoàn đệ tam cọng sản quốc tế, do Liên
Xô-Trung Cộng cầm đầu ‘.Riêng Norman Podhreta, khi về nước đă viết trên
tờ Los Angeles times :’ Nam VN bị mất, không phải v́ cấu xé nội bộ, cũng
không do nhiệt thành quốc gia hay v́ chính phủ không tranh thủ được ḷng
dân. Sự thật tất cả do sự xâm lăng của Bắc Việt, qua hậu thuận của khối
cọng sản đệ tam quốc tế, trong đó có đảng cọng sản Hoa Kỳ .’ C̣n nữ kư
giả Ư từng ca tụng Hồ Chí Minh, tên Tiziano Tersani th́ viết ‘ Binh sĩ
tấn công vào Sài G̣n đều là bộ đội Bắc Việt. Sự phân biệt rất dễ dàng
nhờ h́nh vóc và tiếng nói, người miền bắc hoàn toàn khác lạ với VC miền
nam. ‘.Một nữ kư giả Pháp, Brigitte Friang th́ mai mỉa hơn ‘ Trưa
30-4-1975, bộ đội Bắc Việt vào Sai G̣n. Đây là một thành phố chết, chỉ
có 125 nhà báo ngoại quốc và hơn một chục đứa con nít nam nữ, trương cờ
máu đế chào đón chúng. Ba triệu dân miền Nam nh́n chúng bằng thái độ
lănh đạm. Vậy mà Trần văn Trà, Nguyễn Thị B́nh đi đâu cũng tuyên bố rằng,
chính nhân dân miền nam đă tổng nổi dậy, để lật đổ chính phủ VNCH’.
Nhưng cay cú nhất, phải là lời viết của Jean Larteguy, một nhà
báo Pháp từng cuồng nhiệt ca tụng Hồ Chí Minh và VC như thần thánh trong
nhiều năm qua . Ông viết ‘Sài G̣n mất bởi đạo quân Bắc Việt. Nh́n đoàn
quân chiến thắng đang hồ hởi trên những chiếc tăng T54 hay PT46, treo cờ
máu , đâu có khác ǵ cảnh quân Sô Viết đàn áp, xâm lăng Hung Gia Lợi,
Tiệp Khắc, Ba Lan tai Đông Âu năm nào .’
Bốn mươi mốt năm qua, hầu hết đồng bào VN trong cũng như ngoài
nước tan nát cửa nhà sau cuộc đổi đời không bao giờ dám nghĩ là sẽ có.
Nên cứ mỗi lần tháng tư quốc hận tới, cho dù ai chăng nửa, đại đa số
người dân sống thầm lặng bên vê đường thời gian hay thiểu số dấn thân
trên con đường đấu tranh quang phục đất nước, đều mang chung tâm trang
bi thương, tức tưởi, ngậm ngùi.
Tất cả đều là sự thật v́ mọi bí mật của cuộc chiến đă được các
phe phái, chính người trong cuộc hay các sử gia t́m hiểu, như giáo sư
Morris ‘ Cọng sản Hà Nội đă thắng cuộc xâm lăng miền nam, nhờ tuyên
truyền, đẻ và thổi phồng bịa đặt các huyền thoại chính trị mà hầu hết,
đều là chuyện trên trời dưới biển. Có như vậy, VC mới dụ dỗ và phỉnh gạt
được, nhiều trí thức khoa bảng nhà báo trong và ngoài nước. Nhờ thế suốt
cuộc, chính thành phần này đă góp phần chiến thắng cho Hà Nội, không
phải ở chiến trường, mà là tại Paris, Luân Đôn và Hoa Thịnh Đốn. ‘
Bốn mươi mốt năm rồi, xin hăy trả lại cho người lính trận miền
nam những ǵ họ đă mất từ lâu, do những kẽ cứ hay tự xưng ḿnh là trí
thức, đă cướp đoạt. Người lính VNCH không cần bất cứ ai phải vinh danh,
v́ chính cái phẩm cách tuyệt luân phi thường của lính, đă có một vị trí
xứng đáng trong ḷng dân tộc
Bổng ao ước sao cho đất nước sớm có tự do cuộc đời trở lại như
thuở nào, để dân-lính lại thỏa t́nh cá nước, lính từ dân mà có và dân
sống được nhờ sự bảo vệ thần thánh và chân thành của lính, điển h́nh như
các cuộc di tản khỏi vùng chiến cuộc Tết Mậu Thân 1968, mùa hè đỏ lửa
1972, cuộc di tản tại B́nh Thuận, Xuân Lộc và những ngày Sài G̣n hấp hối,
cuối tháng 4-1975.
Ta về cúi mặt đầu sương điểm
nghe nặng từ tâm lượng đất trời
cám ơn hoa đă v́ ta nở
thế giới vui v́ mọi lẻ loi ‘
(Thơ Tô Thùy Yên)
Bốn mươi mốt năm trước hay bây giờ, người Mỹ cũng chỉ nghỉ đến
quyền lợi của quốc gia ḿnh mà thôi. Bởi vậy muốn đem quân vào VN, người
Mỹ phải giết một tổng thống dân cử của bản xứ. Rồi để rút quân an toàn
về nước, khi đă đạt xong mục đích chiến lược kinh tế của ḿnh, Mỹ lại
dùng áp lực quân viện, để bắt buộc đồng minh của ḿnh, kư vào một hiệp
ước giả mạo phi luân. Cuối cùng dùng nó để bán đứng quốc gia VN, chôn
vùi tương lai của dân tộc anh hùng trong ṿng nô lệ của cọng sản đệ tam
quốc tế., suốt thời gian từ đó tới bây giờ. Tất cả đúng như lời Sir
R.Thompson đă viết năm 1989 trong tác phẩm ‘ Make for the hill ‘, đại ư
ông nói rằng, sự sống của miền nam VN đă bị bán đứng , v́ cảnh cấu xé
của nước Mỹ. Riêng Nixon, nhân vật chính đă cùng Kissiger đạo diễn tấn
thảm kịch VN hôm nay, cũng đă viết những lời sám hối trong ‘ No More
VietNam ‘.Ông viết rằng, tôi đă nh́n thấy những vấn đề nan giăi của hiệp
định Ba Lê, nhất là sự thỏa hiệp, cho phép bộ đội Bắc Việt công khai ở
lại và xâm lăng miền Nam . Nhưng đau đớn nhất, có lẽ là lời phát biểu
của M. Gauvin, nguyên Ủy Viên Giám Sát Quốc Tế (ISCC) tại VN. Ngay khi
thấy CS Hà Nội ngang nhiên xé bỏ hiệp định ngưng bắn mà chúng vừa kư kết
chưa ráo mực, tấn công xâm lăng VNCH, bất chấp cả Hoa Kỳ và Liên Hiệp
Quốc. V́ vậy ông đă viết bài đăng trên tờ The Times số 59362 ngày
5-4-1975 rằng, sự thất bại của VNCH đă bắt nguồn từ hiệp định Ba Lê, v́
nó chẳng bao giờ phản ảnh được ư muốn và nguyện vọng của dân-nước VNCH.
Bốn mươi mốt năm trước, đầu tháng 4-1975 Cộng Sản Bắc Việt
chiếm Phước Long, mở đầu cuộc xâm lăng VNCH, đưa cả nước và dân tộc Việt
vào tận cùng của địa ngục trần gian. Đầu tháng 4-2016, cả nước đang đắm
ch́m trong khủng hoảng v́ nợ nần, kinh tế, hạn hán, mất biển và rối loạn
chính trị v́ sự giành giựt chức tước quyền hàn của đảng.. đưa đồng bào
cả nước vào tận cùng cảnh nghèo đói thảm tuyệt, chưa từng thấy trong
ḍng Việt Sử. Có điều chỉ có người dân nghèo mới nhận chịu nổi đau cùng
khốn này, c̣n đảng và cán bộ nhà nước th́ làm ǵ bị ảnh hưởng tới thời
cuộc đổi thay, v́ vàng đô la vơ vét mấy chục năm qua, xài phí biết bao
giờ mới cạn ?
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2016
Mường Giang
|
|