Trần Trung Đạo:
Việt Nam Cộng Ḥa, lối thoát của Hoàng Sa và dân tộc
Sau 40 năm nếu tính từ thời gian hải quân Trung Cộng tấn chiếm Hoàng Sa
và 56 năm kể từ khi Phạm Văn Đồng gởi công hàm cho Thủ tướng Trung Cộng
Chu Ân Lai, lần đầu tiên lănh đạo CSVN chính thức phủ nhận công hàm. Bao
nhiêu lần lập đi lập lại câu thần chú “Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lư
vững chắc về chủ quyền đối với Hoàng Sa” nhưng giới lănh đạo CSVN không
hề nhắc đến công hàm, tưởng chừng như văn bản đó không phải là của họ.
Thứ Sáu 23-5-2014, ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy Ban Biên Giới Quốc
Gia, trong cuộc họp báo với mục đích “làm rơ công thư của Thủ tướng Phạm
Văn Đồng” đă đưa ra các lư luận để phản bác các quan điểm của Trung Cộng.

Điều kiện quốc tế dẫn tới công hàm Phạm Văn Đồng
Trước 1958, Trung Cộng không có một quan điểm rơ ràng nào về lănh hải.
Nhà văn Trung Quốc Wei Wen-han nghiên cứu về lănh hải nhắc lại cho đến
tháng Sáu 1957 Trung Cộng vẫn chưa có một xác định nào về hải phận và
thềm lục địa thuộc về Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa. Tháng 12 năm 1957,
Nam Dương tuyên bố mở rộng lănh hải từ 3 hải lư theo truyền thống mà hầu
hết các quốc gia áp dụng sang 12 hải lư và được tính từ điểm ngoài cùng
của các đảo thuộc lănh thổ Nam Dương. V́ Nam Dương là quốc gia quần đảo,
nếu tính như vậy, một vùng biển rộng lớn của vùng Nam Thái B́nh Dương và
Ấn Độ Dương đều thuộc quyền kiểm soát của Nam Dương. Anh, Ḥa Lan và
nhiều quốc gia khác cùng lên tiếng phản đối. Trung Cộng chụp lấy thời cơ
binh vực Nam Dương và ngày 4 tháng 9 năm 1958 công bố riêng một Bản
tuyên bố về lănh hải của Trung Quốc (Declaration on China’s Territorial
Sea) với các điểm chính như mọi người đều biết: “Bề rộng của lănh hải
Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa sẽ là 12 hải lư” và “áp dụng tương tự đối
với Đài Loan và các đảo chung quanh, Quần đảo Bành Hồ (Penghu), Quần đảo
Trung Sa (Tungsha), Quần đảo Tây Sa (Hsisha), Quần đảo Chungsha, Quần
đảo Nansha (Nam Sa), và các đảo khác thuộc Trung Quốc”.
Công tâm mà nói, bản tuyên bố của Trung Cộng trong thời điểm đó nhắm vào
Mỹ đang bảo vệ các tàu hàng Đài Loan trong các vùng đảo Kim Môn, Mă Tổ,
Bành Hồ hơn là các nước Đông Nam Á. Người soạn thảo bản tuyên bố của
Trung Cộng áp dụng phương pháp tính lănh hải của Nam Dương và có tầm
nh́n Đại Hán nên đă đưa các đảo Tây Sa (Hsisha) tức Hoàng Sa và Nam Sa (Nansha)
tức Trường Sa trong vùng biển Đông vào. Chính phủ Mỹ tức khắc bác bỏ bản
tuyên bố của Trung Cộng và các chiến hạm Mỹ vẫn tiếp tục bảo vệ an ninh
cho các tàu hàng Đài Loan trong vùng 3 hải lư của đảo Kim Môn, Bành Hồ
chung quanh Đài Loan. Trung Cộng không dám bắn. Bộ quốc pḥng Mỹ đă lên
kế hoạch tấn công Trung Cộng bằng bom nguyên tử. Để giữ thể diện, Bành
Đức Hoài tuyên bố ngưng bắn vào Kim Môn nếu tàu chiến Mỹ ngưng bảo vệ
tàu hàng Đài Loan. Mỹ chẳng những không đáp lại đ̣i hỏi của Trung Cộng
mà c̣n gởi Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles thăm Đài Loan để bàn kế
hoạch pḥng thủ Đài Loan lâu dài.
Hai lư do Trần Duy Hải dùng để bác bỏ công hàm Phạm Văn Đồng
Thứ nhất. Công hàm Phạm Văn Đồng “hoàn toàn không đề cập đến vấn đề
lănh thổ và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.
Lư luận này không thuyết phục được ai. Không cần phải đứng về phía Trung
Cộng mà chỉ một người có chút hiểu biết và dù đứng về phía Việt Nam cũng
phản bác lại dễ dàng. Đưa ra lư do không đề cập đến Hoàng Sa, Trường Sa
là một cách tự kết án ḿnh. Bản tuyên bố của phía Trung Cộng ghi rơ
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Cộng và Việt Nam đáp lại bằng cách
“ghi nhận và tán thành bản tuyên bố”. CSVN có nhiều cách để lấy ḷng đàn
anh Trung Cộng mà vẫn giữ được chủ quyền đất nước. Chẳng hạn, Phạm Văn
Đồng chỉ nhấn mạnh đến sự ủng hộ của đảng và nhà nước CSVN đối với các
chính sách của Trung Cộng trong xung đột Đài Loan mà không nhắc nhở ǵ
đến Hoàng Sa, Trường Sa và coi như không biết đến “Bản tuyên bố về lănh
hải của Trung Quốc”. May ra c̣n có thể căi cọ được. Tiếc thay, lănh đạo
đảng sợ viết như vậy chưa vừa ḷng đàn anh và chưa tỏ bày hết ḷng dạ
trung kiên, cắt cỏ ngậm vành của ḿnh.
Không giống thái độ của các nước Mỹ, Anh, Ḥa Lan, CSVN tự nguyện đưa cổ
vào tṛng. Không có một văn bản nào cho thấy Trung Cộng áp lực Việt Nam
phải đồng ư với bản tuyên bố lănh hải của Trung Cộng. Không có tài liệu
nào cho thấy Trung Cộng đe dọa nếu CSVN không ủng hộ sẽ đưa quân sang
“dạy cho một bài học” hay cắt đứt viện trợ. Thời điểm năm 1958 vấn đề
chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa chưa phải là mối bận tâm hàng đầu của
Trung Cộng, tuy nhiên những người soạn thảo bản công bố chủ quyền biển
của Trung Cộng đă biết pḥng xa. CSVN th́ không. Nếu sự kiện được tŕnh
lên toàn án quốc tế, không một quan ṭa nào sơ đẳng đến mức đánh giá hai
văn bản một cách độc lập với nhau.
Phân tích để thấy, lănh đạo CSVN trong lúc phủ nhận giá trị của công hàm
Phạm Văn Đồng trước dư luận quốc tế, cũng đồng thời thừa nhận trước nhân
dân Việt Nam công hàm Phạm Văn Đồng là công hàm bán nước.
Lư do thứ hai cũng do Trần Duy Hải đưa ra “Hoàng Sa và Trường Sa cũng
phù hợp với thực tế lúc đó hai quần đảo này nằm dưới vĩ tuyến 17 thuộc
quyền quản lư của Việt Nam Cộng ḥa”.
Trong hai lư do, chỉ có lư do Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) là có sức thuyết
phục về mặt pháp lư cũng như gây được cảm t́nh của thế giới tự do. Tuyên
cáo của chính phủ VNCH công bố ngày 14 tháng Hai năm 1974 xác định chủ
quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như Bạch thư của Bộ
Ngoại Giao VNCH đầu năm 1975 đanh thép bác bỏ giá trị pháp lư của công
hàm Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng không thể công nhận những ǵ không
thuộc lănh thổ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. VNCH là một quốc gia có
chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ. Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về VNCH đă
được quốc tế công nhận. Tuy nhiên, lư luận VNCH có gây được cảm t́nh
nhân loại và có thể dùng để tranh luận trong bàn hội nghị cũng chưa
thắng được bởi v́ VNCH không c̣n là một thực thể chính trị.
Phản bác của nhà nghiên cứu Trung Quốc
Ngô Viễn Phú, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Pháp luật Việt Nam và từng du
học tại Việt Nam đă bác bỏ các luận điểm của CSVN. Ngô Viễn Phú cho rằng
“Ở thời điểm đó, trên trường quốc tế, một số quốc gia có quan hệ tốt
với miền Bắc, trong đó có Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện
hợp pháp duy nhất cho Việt Nam; và phía Trung Quốc, vào ngày 18 tháng 1
năm 1950, thể theo đề nghị của chính quyền miền Bắc, đă thiết lập quan
hệ ngoại giao chính thức với miền Bắc, hai bên cùng cử đại sứ (tới Hà
Nội và Bắc Kinh).”
Đàn anh Cộng Sản Trung Quốc công nhận đàn em CSVN là chuyện đương nhiên
và thể theo lời yêu cầu của CSVN chứ không phải của VNCH. Quan hệ ngoại
giao giữa hai nước thay đổi theo từng thời kỳ. Singapore là một nước nhỏ
nhưng măi đến 1990 mới công nhận Trung Cộng. Liên Xô là một nước lớn
nhưng Mỹ bắt chờ 16 năm sau cách mạng CS Nga mới công nhận Liên Xô. Thời
điểm 1933 Nhật bắt đầu bành trướng ở phương Đông nên Mỹ cần làm dịu căng
thẳng ở phương Tây, nếu không Tổng thống Franklin Roosevelt c̣n cô lập
Liên Xô thêm nhiều năm nữa.
Việc “Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy
nhất cho Việt Nam” cũng chỉ giá trị giữa miền Bắc CS và Trung Cộng
không ảnh hưởng ǵ với quốc tế và không liên hệ ǵ đến nước thứ ba,
trong trường hợp này là VNCH. Trung Cộng có quyền công nhận miền Bắc
Cộng Sản và không công nhận VNCH về mặt ngoại giao nhưng vẫn phải thừa
nhận VNCH là một quốc gia độc lập được quốc tế và các quốc gia tham dự
hội nghị Geneva, trong đó có Trung Cộng tham dự và kư kết.
Trong khi phản bác Ngô Viễn Phú lại cũng dựa trên lư luận CSVN đă xâm
lược VNCH và không có quyền “thừa kế” lănh thổ của nước bị chiếm: “Nếu
theo quan điểm đă nhắc đến ở trên của các học giả Việt Nam th́, miền Bắc
là “bên thứ ba ở ngoài không liên quan”, như vậy, sẽ có nghĩa là thừa
nhận địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế th́, những cái gọi
là “bù nh́n” hay “chính quyền ngụy” chỉ là cách gọi càn, và việc “giải
phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính là hành động xâm lược.
Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền “kế thừa”
lănh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế th́, chính
quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc trước
đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền miền
Nam để mà đưa yêu cầu về lănh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo
Nam Sa.”
Về mặt công pháp quốc tế cũng như cả lănh đạo CSVN lẫn phe phản bác lư
luận của CSVN đều công nhận rằng chủ nhân thật sự của Hoàng Sa vẫn là
VNCH. Do đó, điều kiện tiên quyết, chọn lựa duy nhất và con đường thích
hợp nhất không chỉ để giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với
Trung Công mà mở đường cho tự do, dân chủ và thịnh vượng là tập trung
vào công cuộc phục hưng VNCH.
Lối thoát VNCH
Đọc tới đây, một số độc giả có thể sẽ dừng lại v́ cho người viết không
tưởng, hư cấu hay chủ trương đi lại một vết xe đổ. Không. Phục hưng VNCH
không phải là đi lùi vào quá khứ mà hướng tới tương lai, không phải lập
lại mà thăng tiến cao hơn. VNCH không phải là vết nhăn trên trán của thế
hệ cha chú đă qua mà là hành trang và ước vọng của tuổi trẻ ngày nay.
Chủ nghĩa CS mới thật sự là lạc hậu và việc cáo chung của chủ nghĩa này
chỉ là vấn đề thời gian. Thác nước Niagara không thể nào chảy ngược.
Không phải người viết, phần đông độc giả mà ngay cả các lănh đạo CSVN
cũng không thể chối căi sự thật đó. Chủ nghĩa CS c̣n kéo dài ở Á Châu
cho đến hôm nay là nhờ họ biết núp bóng sau tấm b́nh phong chống thực
dân đế quốc. Tấm b́nh phong do họ dựng lên đang ră mục. Năm 1954 tại
miền Bắc, nhiều người thật sự tin rằng đảng CS và dân tộc Việt Nam là
một, như nước với sữa, như máu với thịt, hay như Hồ Chí Minh nói “đảng
là con ṇi của dân tộc”. Năm 1975, khi đối diện với miền Nam từ lối sống
đến phương tiện hoàn toàn khác với những ǵ bộ máy tuyên truyền CS đă
thêu dệt nhiều người bắt đầu nhận ra đảng đă lợi dụng máu xương của
những người ngă xuống v́ khát vọng ḥa b́nh, v́ mơ ước đoàn viên, v́ cơm
no áo ấm chỉ để CS hóa toàn đất nước. Và hôm nay, 2014, đông đảo nhân
dân Việt Nam đă hiểu rơ cơ chế độc tài là trở lực duy nhất trên con
đường dẫn đến một Việt Nam tự do, dân chủ, văn minh. Cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ toàn diện và triệt để tại Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian.
Và khi đó, thể chế nào khác sẽ thay thế chế độ CS nếu không phải là thể
chế cộng ḥa? Thực tế chính trị rất hiển nhiên đó đang là một khải hoàn
ca tại hầu hết các quốc gia cựu Cộng Sản như Cộng ḥa Czech, Cộng ḥa
Hungary, Cộng ḥa Ba Lan, Cộng ḥa Lithuania, Cộng ḥa Estonia, Cộng ḥa
Mông Cổ v.v… Tiến tŕnh dân chủ hóa diễn ra nhanh hay chậm tùy theo điều
kiện của mỗi nước nhưng là hướng phát triển của văn minh nhân loại trong
thời đại này.
Giá trị của VNCH
Trong suốt 60 năm từ 1954, bộ máy tuyên truyền của đảng đă không ngừng
vẽ trong nhận thức của bao nhiêu thế hệ Việt Nam một VNCH chẳng khác ǵ
một con ma, ghê sợ, hung dữ và tội lỗi nhất trong thế gian này. Suốt 60
năm qua, VNCH là hiện thân của mọi thứ tội ác. Trong nhận thức không chỉ
tuổi trẻ Việt Nam sinh sau 1975 mà ngay cả các tầng lớp cán bộ, đảng
viên, nhà văn, nhà thơ đều được dạy để biết VNCH có ba đặc điểm lớn là
“tham nhũng”, “trấn áp” và “ôm chân đế quốc Mỹ”.
Trong tiểu luận “Khám nghiệm một hồn ma” trên Talawas 8 năm trước người
viết đă có dịp phân tích thể chế cộng ḥa tại miền Nam. Xin trích một
phần bài viết đó ở đây để chia sẻ với các độc giả chưa đọc.
Miền Nam trước 1975 có tham nhũng không? Chẳng những có mà c̣n vô cùng
trầm trọng.
Miền Nam có đàn áp biểu t́nh, đối lập không? Có, không chỉ đàn áp một
lần mà nhiều lần, không chỉ một năm mà nhiều năm.
Miền Nam trước 1975 có sống bám vào viện trợ Mỹ không? Có, không chỉ 300
triệu dollars “viện trợ đặc biệt” như nhiều người hay nhắc mà nhiều tỉ
đô la.
Vâng, tất cả điều đó đều có. Chế độ cộng ḥa tại miền Nam Việt Nam ra
đời và lớn lên trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trong đó các
nguyên tắc dân chủ đă trở thành con dao hai lưỡi. Chính con dao dân chủ
hai lưỡi đó đă đâm vào thân thể của chế độ cộng ḥa hàng trăm vết thương
đau đớn từ ngày mới ra đời cho đến gục xuống trong tức tưởi. Miền Nam có
tất cả sắc thái của một xă hội dân chủ đang từng bước đi lên. Dân chủ
không phải là lô độc đắc giúp một người trở nên giàu sang trong một sớm
một chiều mà là quá tŕnh tích lũy vốn liếng từ những chắt chiu của mẹ,
tần tảo của cha, thăng trầm và thử thách của cả dân tộc.
Ngay cả những quốc gia tiên tiến như Pháp, Mỹ, Nam Hàn cũng phải bước
qua con đường đầy máu nhuộm để có được nền dân chủ như hôm nay. VNCH
cũng vậy. Miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính
trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham
nhũng hoạt động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông
tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách,
dân biểu, nghị sĩ đối lập chân chính. Như một viên ngọc nằm trong ḷng
lớp rong rêu của vỏ con trai, trên tất cả, giá trị đích thực của VNCH
không nằm trong tham nhũng, trấn áp và đồng đô la Mỹ mà nằm trong Hiến
pháp VNCH đặt nền tảng trên một thể chế dân chủ do dân và v́ dân.
Lời mở đầu của Hiến pháp 1967 do chủ tịch Quốc hội Lập hiến Phan Khắc
Sửu kư ngày 18 tháng 3 năm 1967, xác định Việt Nam là một chế độ cộng
ḥa “Dân chủ độc lập, thống nhất, lănh thổ bất khả phân, chủ quyền
thuộc về toàn dân” phát xuất từ “Ư thức rằng sau bao năm ngoại
thuộc, kế đến lănh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt
Nam phải lănh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ư chí tự cường, đồng thời
đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể cộng ḥa của
dân, do dân và v́ dân, nhằm mục đích đoàn kết dân tộc, thống nhất lănh
thổ, bảo đảm Độc lập Tự do Dân chủ trong công bằng, bác ái cho các thế
hệ hiện tại và mai sau.”
Ngoài phần mở đầu hùng hồn nêu trên, chuyên chở trong suốt 9 chương và
117 điều của Hiến pháp 1967 là nền tảng của chế độ cộng ḥa, qua đó,
quyền lănh đạo đất nước như chỉ rơ trong điều 3, được phân quyền rơ rệt:
”Ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân nhiệm và
phân quyền rơ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối
hợp và điều ḥa để thực hiện trật tự xă hội và thịnh vượng chung trên
căn bản Tự do, Dân chủ và Công bằng xă hội”.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là phục hưng chính quyền miền Nam. Chính
thể không đồng nghĩa với một chính quyền và do đó không sống hay chết
theo một chính quyền. Giá trị của VNCH được xây bằng xương máu của bao
nhiêu người và ngày nay đă vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành ước
vọng chung cho cả dân tộc. Sau 39 năm, VNCH như một mạch nước chảy ngầm
trong rặng núi, đau đớn, vất vả, khó khăn nhưng không bao giờ ngừng
chảy. Nếu ai cho tôi khoác lác hăy gác qua bên mặc cảm Bắc Nam, định
kiến xă hội, khuynh hướng chính trị, đảng phái, tôn giáo, tả khuynh, hữu
khuynh, thù hận riêng tư và thậm chí che luôn bốn chữ Việt Nam Cộng ḥa
trên trang đầu của Hiến pháp VNCH mà chỉ đọc một cách nghiêm chỉnh nội
dung thôi, tôi tin người đọc dù Nam hay Bắc, dù trong hay ngoài nước, sẽ
công nhận đó chính là mục tiêu mà dân tộc Việt Nam cần phải đạt đến.
Công nhận các giá trị được đề ra trong hiến pháp VNCH không có nghĩa là
đầu hàng, chiêu hồi. Không. Không ai có quyền chiêu hồi ai hay kêu gọi
ai đầu hàng. Đây là cuộc chiến mới, cuộc chiến giữa dân tộc và phản dân
tộc, giữa cộng ḥa và cộng sản, giữa tự do và độc tài, giữa nhân bản và
toàn trị. Mỗi người Việt sẽ chọn một chỗ đứng cho chính ḿnh phù hợp với
quyền lợi bản thân, gia đ́nh, con cháu và sự sống c̣n của dân tộc.
Hiến pháp VNCH có thể chưa hoàn chỉnh nhưng là một văn kiện tham khảo
cần thiết để kiến tạo một Việt Nam dân chủ cường thịnh. Hạt giống do
Phan Chu Trinh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường,
Nguyễn An Ninh và rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng
thế kỷ trước đă mọc và lớn lên trong mưa băo. Hạt giống dân chủ khơi mầm
tại miền Nam cũng không chỉ bắt đầu sau khi đất nước bị chia đôi 1954 mà
đă có từ hàng trăm năm trước.
Lợi dụng chính sách Nam kỳ tự trị của thực dân, các nhà cách mạng tại
miền Nam có cơ hội học hỏi và áp dụng phương pháp đấu tranh nghị trường,
tiếp cận các tư tưởng dân chủ Tây phương, mở mang dân trí làm nền tảng
cho chế độ cộng ḥa sau này. Đó không phải là sản phẩm của Tây hay Mỹ mà
là vốn quư của dân tộc đă được đổi bằng máu, mồ hôi, nước mắt của nhiều
người. Đó không phải là tài sản của riêng miền Nam mà của tất cả những
người Việt cùng ôm ấp một ước mơ dân chủ. Những ai biết gạt bỏ định kiến
Bắc Nam, tháo gỡ lớp màn “căm thù Mỹ Ngụy” ra khỏi nhận thức, sẽ thấy đó
chính là hành trang cần thiết cho nỗ lực mưu cầu một xă hội công bằng và
tốt đẹp hơn cho các thế hệ mai sau. Không cần phải t́m giải pháp từ Miến
Điện, Nam Phi, Ai Cập, Libya hay t́m chân lư ở Anh, ở Mỹ mà ngay ở đây,
giữa ḷng đất nước Việt Nam.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là phủ nhận công lao của những người đă hy
sinh trong chiến tranh chống thực dân Pháp. Như kẻ viết bài này đă nhấn
mạnh nhiều lần, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính
nghĩa. Đó là cuộc đấu tranh đầy gian khổ nhưng rất anh hùng của một dân
tộc bị nô lệ đă đứng lên chống lại một thực dân tàn bạo. Việc tham gia
vào đảng phái, kể cả việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người
Việt Nam trong thời kỳ chống Pháp, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm
mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn. Những
người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một chiếc phao
để đưa dân tộc sang bờ độc lập nhưng đối với đảng CS chiếc phao lại
chính là dân tộc.
Nhiều người yêu nước chọn tham gia vào đảng CS nhưng bản thân đảng CS
như một tổ chức chính trị dựa trên ư thức hệ CS chưa bao giờ là một đảng
yêu nước. Những nông dân hiền ḥa chất phác, những công nhân đầu tắt mặt
tối làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh
phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc
phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc đời họ mà c̣n
gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày nay. Dù sao, người yêu nước bằng t́nh
yêu trong sáng, không đánh thuê, đánh mướn cho một chủ nghĩa, một ư thức
hệ ngoại lai vong bản hay cho một quyền lợi đế quốc nào sẽ không bao giờ
chết, không bao giờ bị lăng quên. Lịch sử sẽ đánh giá, tổ quốc sẽ ghi
công họ một cách công bằng.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là tái thực thi hiệp định Paris. Dân tộc
Việt Nam là một thực thể thống nhất và tất cả các ḥa ước Patenôtre,
hiệp định Geneva hay hiệp định Paris đều là những chiếc c̣ng của thực
dân và đế quốc áp đặt lên đầu lên cổ dân tộc Việt Nam trong giai đoạn
Việt Nam yếu kém và phân hóa. Trước 1975, trong đáy ḷng của bất cứ một
người Việt yêu nước nào cũng mong một ngày dân tộc Việt Nam từ Ải Nam
Quan đến Mũi Cà Mau sẽ được đoàn viên trong tự do, dân chủ và thịnh
vượng. Tuy nhiên, ngoài trừ lănh đạo CSVN chủ trương CS hóa toàn cơi
Việt Nam bằng súng đạn của Nga, Tàu, không ai muốn đoàn viên phải trả
bằng giá của nhiều triệu sinh mạng người dân vô tội, đốt cháy một phần
đất nước, để lại một gia tài nghèo nàn lạc hậu cho con cháu. Hôm nay, dù
không tự ḿnh chọn lựa, dân tộc Việt Nam cũng đă là một và không có một
thế lực nào làm Việt Nam phân ly lần nữa.
Lịch sử Việt Nam như một ḍng sông, có khi cuồn cuộn lúc âm thầm, có chỗ
sâu chỗ cạn nhưng chưa bao giờ ngưng chảy. Đó là sự thật. Khoảng thời
gian từ khi Mă Viện, danh tướng nhà Đông Hán, đánh bại Hai Bà Trưng (năm
43) đến khi Lư Nam Đế đánh bại quân Lương Vũ Đế và dựng nước Vạn Xuân
(năm 543) là tṛn 500 năm. Biết bao nhiêu lớp người đă sinh ra và chết
đi trong suốt 5 thế kỷ sống trong bóng tối nô lệ nhưng sức sống Việt Nam
vẫn tồn tại và lớn lên. Việt Nam là một trong số rất ít quốc gia trên
thế giới trong đó người dân gọi nhau bằng hai tiếng đồng bào thân thương
và tŕu mến. Đối mặt với một kẻ thù đông hơn nhiều và mạnh hơn nhiều,
chưa bao giờ sức mạnh tổng hợp của 90 triệu người Việt trong nước và 3
triệu người Việt ở hải ngoại cần thiết như hôm nay. Đảng CS có 3 triệu
đảng viên nhưng đa số trong số 3 triệu người này trong thực tế cũng chỉ
là nạn nhân của một tập đoàn lănh đạo đảng tham quyền và bán nước. Chỉ
có sức mạnh toàn dân tộc phát triển trên cơ chế dân chủ tự do mới mong
thắng được Trung Cộng và mọi kẻ thù có âm mưu xâm lược Việt Nam. Tổ tiên
Việt Nam đă làm được rồi các thế hệ Việt Nam ngày nay cũng sẽ làm được.
Người viết biết rằng, đối với một số người Việt đă bị bộ máy tuyên
truyền đầu độc quá lâu và các bạn trẻ bị nhào nặn hoàn toàn trong hệ
thống giáo dục một chiều CS, để có một nhận thức đúng về lịch sử là một
quá tŕnh đấu tranh tư tưởng khó khăn.
Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hăy nh́n thẳng vào thực tế
đất nước sau 39 năm vẫn là một nước lạc hậu về mọi mặt từ kinh tế, chính
trị, quốc pḥng và đời sống. Việt Nam c̣n thua xa những nước ở châu Phi
như Ghana, Sierra Leone, Namibia v́ những quốc gia đó c̣n nghèo nhưng
hănh diện v́ chính phủ họ do nhân dân họ bầu lên. Nếu vậy, tạm gác qua
chuyện thế kỷ trước mà hăy nh́n vào cách giải quyết tranh chấp Hoàng Sa,
Trường Sa với Trung Cộng của lănh đạo CSVN. Ngoài những lời phản đối đọc
như kinh nhật tụng họ không có và cũng không thể có một chọn lựa dứt
khoát nào chỉ v́ quyền lợi trước mắt của một nhóm người lănh đạo được
đặt lên trên quyền lợi lâu dài của đất nước. Như người viết đă tŕnh bày
trong bài trước, rồi mai đây, sau trận đánh ghen HD-981, lănh đạo CSVN
lại lên đường sang Bắc Kinh triều cống, lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi
t́nh đồng chí, nghĩa anh em thắm thiết. Cơn hờn giận giữa hai đảng CS
theo thời gian có thể sẽ nguôi ngoai nhưng trên các vùng biên giới,
trong ḷng biển Việt Nam, máu của ngư dân Việt Nam, của người lính biển
Việt Nam sẽ không ngừng chảy. Thảm trạng xă hội Việt Nam hôm nay, những
lạc hậu kinh tế hôm nay, những yếu kém về quốc pḥng hôm nay, những cô
đơn trong bang giao quốc tế hôm nay là những câu trả lời cho những ai
c̣n do dự, c̣n một chút tin tưởng nào đó ở lănh đạo đảng CSVN.
Sau hải chiến Hoàng Sa đầy hy sinh xương máu, VNCH lần nữa lại được
lịch sử giao trọng trách đ̣i lại Hoàng Sa, Trường Sa trong tay Trung
Cộng. Cuộc tranh đấu mới sẽ khó khăn nhưng là con đường đúng nhất của
dân tộc trong cùng hướng phát triển của nhân loại. Giống như hầu hết
các nước cựu CS ở Đông Âu và khối Liên Xô, thể chế Cộng Ḥa là chọn lựa
đương nhiên và dứt khoát. Các quốc gia sẽ b́nh đẳng trước công pháp quốc
tế. Những khẩu hiệu tuyên truyền rất sến như “16 chữ vàng”, “hữu nghị
Việt Trung” sẽ bị chôn sâu theo xác của ư thức hệ CS. Dân tộc Việt Nam
sẽ vượt qua những khó khăn để phát triển thành một quốc gia hiện đại về
cả kinh tế lẫn quốc pḥng. Các nhà lănh đạo VNCH trong cuộc đấu tranh
mới trên mặt trận ngoại giao sẽ hành xử xứng đáng với tư cách của một
cấp lănh đạo chính danh, thay mặt cho một nước VNCH thống nhất, dân chủ,
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lănh thổ và chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của
đại đa số con người yêu chuộng tự do, ḥa b́nh trên thế giới. Giành lại
Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là một cuộc tranh đấu gian nan, gai góc, bị
chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng chính nghĩa và
chân lư cuối cùng sẽ thắng.
Trần Trung Đạo
***
|
|