Phỏng vấn ông Lê Hùng về thỏa ước Thành Đô
***
HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ 1990
Bài 2
VAI TR̉ VÀ TRÁCH NHIỆM
CỦA NGUYỄN VĂN LINH - LÊ ĐỨC ANH
TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
Hồi kư "Hồi Ức và Suy Nghĩ" của Trần Quang Cơ
nhà báo Trần Quang Thành giới thiệu

Tổng
bí thư Nguyễn Văn Linh gặp
Đại sứ Trương Đức Duy (5-6-1990)
Lời giới thiệu : Trong cái gọi là công cuộc đổi mới, giới lănh đạo Đảng
Cộng sản Việt Nam tâng bốc Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh là người khởi
xướng ; c̣n Lê Đức Anh th́ được thuộc hạ xủng ái như môt thái thượng
hoàng thời cộng sản độc quyền cai trị đất nước. Nhưng trong hồi kư “Hồi
ức và Suy nghĩ”,Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đă bộc lộ một bộ mặt khác:
Hèn nhát, bạc nhược đầu hàng quan thầy Trung Quốc.
Chương 10 mang tựa đề “Thuốc đắng nhưng không dă được tật” nhà
ngoại giao kỳ cựu Trần Quang Cơ viết :
"Sáng 30.5.90, Bộ Chính Trị họp bàn về đàm phán với Trung Quốc, Tổng bí
thư Nguyễn Văn Linh thông báo với Bộ Chính trị về cuộc họp với 2 Tổng bí
thư Đảng Lào và Đảng Campuchia ngày 20-21/5, nói là dự định sẽ gặp đại
sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín khi Từ đến Hà Nội. Cố vấn Phạm Văn Đồng và
một số trong Bộ Chính trị tỏ ư phải thận trọng trong xử sự với Trung
Quốc.
Anh Tô nói: Mấy ngh́n năm Trung Quốc vẫn là Trung Quốc, không nên cả
tin. Ta cần thăm ḍ thúc đẩy nhưng phải cảnh giác, đừng để hớ. Đỗ Mười
cũng khuyên anh Linh không nên gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín trước
cuộc đàm phán. Nhưng Lê Đức Anh lại tỏ ra đồng t́nh với dự định của anh
Linh, cho rằng phải thăm ḍ và phân tích chiến lược của Trung Quốc, xử
lư mối quan hệ của 3 nước lớn và 5 nước thường trực Hội đồng bảo an,
tranh thủ thế giới thứ ba, ủng hộ các nước XHCN.
Đa số trong Bộ Chính trị đều cho rằng không nên nói đến “giải pháp Đỏ” với
Trung Quốc nữa. Cuối cùng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh kết luận lại là
anh sẽ chỉ gặp đại sứ Trung Quốc, c̣n không gặp Từ Đôn Tín; về phía lănh
đạo ta, chỉ có anh Thạch tiếp Từ. Nguyễn Văn Linh c̣n nói khi gặp Trương
Đức Duy anh sẽ chỉ nói về hợp tác hai nước và đề nghị gặp cấp cao, không
nói đến “giải pháp Đỏ”. Nhưng trên thực tế trong cuộc gặp đại sứ Trung
Quốc vài hôm sau, Nguyễn Văn Linh đă lại nêu vấn đề đó.
Ngày 5.6.90, vài ngày trước khi Từ Đôn Tín đến Hà Nội, Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh đă mời đại sứ Trương Đức Duy (vừa từ Bắc Kinh trở lại Hà
Nội) đến Nhà khách Trung ương Đảng nói chuyện thân mật để tỏ ḷng trọng
thị đối với Bắc Kinh.
Trong cuộc gặp, như để chấp nhận lời phê b́nh của Đặng (nói qua Kayson),
Nguyễn Văn Linh nói “Trong quan hệ hai nước, 10 năm qua có nhiều cái
sai. Có cái đă sửa như việc sửa đổi Lời nói đầu của Hiến pháp, có cái
sai đang sửa”.
Anh sốt sắng ngỏ ư muốn sang gặp lănh đạo Trung Quốc để “bàn
vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xă hội” v́
“đế quốc đang âm mưu thủ tiêu chủ nghĩa xă hội... chúng âm mưu diễn
biến hoà b́nh, mỗi đảng phải tự lực chống lại. Liên Xô là thành tŕ Xă
hội chủ nghĩa , nhưng lại đang có nhiều vấn đề. Chúng tôi muốn cùng các
người cộng sản chân chính bàn
vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xă hội...
Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc gặp lănh đạo cấp cao Trung Quốc để khôi
phục lại quan hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay...
Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xă hội, kiên tŕ chủ nghĩa
Mác-Lênin”.
Về vấn đề Campuchia, anh Linh đă gợi ư dùng “giải pháp Đỏ” để
giải quyết: “Không có lư ǵ những người cộng sản lại không thể bàn
với những người cộng sản được”, “họ gặp Sihanouk c̣n được huống chi là
gặp lại nhau”.
Sáng 6.6.90, Bộ trưởng Quốc pḥng Lê Đức Anh lại gặp riêng và mời cơm
đại sứ Trương Đức Duy. Cuộc gặp riêng chỉ giữa hai người, Trương Đức Duy
vốn là thông dịch, rất thạo tiếng Việt nên không cần có người làm phiên
dịch.
Nội dung cuộc gặp này măi đến ngày 19/6 trong cuộc họp Bộ Chính trị để
đánh giá cuộc đàm phán 11-13/6 giữa tôi và Từ Đôn Tín, Lê Đức Anh mới
nói là đă gặp Trương Đức Duy để nói cụ thể thêm ba ư mà anh Linh đă nói
với đại sứ Trung Quốc hôm trước (gặp cấp cao hai nước; hai nước đoàn kết
bảo vệ chủ nghĩa xă hội; hai nhóm cộng sản Khmer nên nói chuyện với nhau).
Nhưng trước đó, từ ngày 6/6, phía Trung Quốc (tham tán Lư Gia Trung và
Bí thư thứ nhất Hồ Càn Văn) đă cho ta biết nội dung câu chuyện giữa Lê
Đức Anh và Trương Đức Duy.
C̣n đại sứ Trung Quốc cho anh Ngô Tất Tố, Vụ trưởng vụ Trung Quốc biết
là trong cuộc gặp ông ta ngày 6/6, anh Lê Đức Anh đă nói khá cụ thể về
“giải pháp Đỏ”: “Sihanouk sẽ chỉ đóng vai tṛ tượng trưng, danh dự,
c̣n lực lượng chủ chốt của hai bên Campuchia là lực lượng Heng Somrin và
lực lượng Polpot, Trung Quốc và Việt Nam mỗi bên sẽ bàn với bạn
Campuchia của ḿnh, và thu xếp để hai bên gặp nhau giải quyết vấn đề.
Địa điểm gặp nhau có thể ở Việt Nam, có thể ở Trung Quốc, nhưng ở Trung
Quốc là tốt hơn cả. Đây là gặp nhau bên trong, c̣n bên ngoài hoạt động
ngoại giao vẫn như thường... Ngày xưa Polpot là bạn chiến đấu của tôi...”
Trưa ngày 9/6/90, Đại sứ Trương Đức Duy nói với Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại
giao ta rằng, trong cuộc gặp Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, phía Trung
Quốc rút ra được 3 ư kiến:
Đồng chí Nguyễn Văn Linh nói về quan hệ hai nước rất đậm đà. Nói 10 năm
qua có nhiều cái sai. Có cái sai như lời nói đầu của Hiến pháp, có cái
sai đang sửa. Muốn gặp cấp cao Trung Quốc để trao đổi những vấn đề lớn
trong quan hệ hai nước.
Về t́nh h́nh quốc tế: t́nh h́nh Liên xô, Đông Âu có nhiều thay đổi. Liên
Xô trước đây là thành tŕ của chủ nghĩa xă hội, nay thành tŕ này cũng
lung lay rồi. Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ xă hội chủ nghĩa, kiên
tŕ chủ nghĩa Mác-Lênin. Việt Nam kiên tŕ chủ nghĩa Mác-Lênin. Những
mgười cộng sản chân chính phải đoàn kết để bảo vệ chủ nghĩa xă hội. Chủ
nghĩa đế quốc luôn tấn công vào chủ nghĩa xă hội. Chúng tuyên bố đến
cuối thế kỷ này sẽ làm cho chủ nghĩa xă hôi biến mất.
Về Campuchia: tại sao những người cộng sản không hợp tác với nhau ?
Polpot và Hunxen phải hợp tác với nhau.
Chiều 10/6/90, Bí thư thứ nhất sứ quán Trung Quốc Hồ Càn Văn nói với anh
Vũ Thuần, Vụ phó vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao: “Từ Đôn Tín tuy là trợ
lư ngoại trưởng nhưng là người có thực quyền trong việc giải quyết các
vấn đề châu Á. Trên khía cạnh nào đó có thể nói c̣n có thực quyền hơn cả
cấp thứ trưởng. Việc Từ sang Việt Nam lần này là có sự quyết định của
cấp cao nhất của Trung Quốc, chứ không phải Bộ Ngoại giao.”
Theo Hồ Càn Văn, ngày 23/5/90 Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc pḥng
Việt Nam Vũ Xuân Vinh đă mời Tuỳ viên quân sự Trung Quốc Triệu Nhuệ đến
để thông báo là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Bộ trưởng Quốc pḥng Lê
Đức Anh sẽ tiếp Từ Đôn Tín khi Từ đến Hà Nội. Chính những động thái bất
thường và vượt ra ngoài khuôn khổ ngoại giao này của ta đă làm cho Trung
Quốc hiểu rằng nội bộ Việt Nam đă có sự phân hoá và vai tṛ của Bộ Ngoại
Giao không c̣n như trước.
Ngày 8/6/90, khi được biết là lần này tôi sẽ là người đứng ra thay anh
Đinh Nho Liêm đàm phán với Từ Đôn Tín. Bộ trưởng Quốc pḥng Lê Đức Anh
c̣n điện thoại dặn tôi tránh chủ động nói đến “giải pháp Đỏ”:
Việc hai bên Đỏ tiếp xúc với nhau là chuyện lâu dài, cần cho ổn định lâu
dài. Trung Quốc sẽ tác động với phía Campuchia thân Trung Quốc, ta sẽ
tác động với phía Campuchia thân ta để hai bên kiềm chế việc thù địch
nhau. Việc này phải có thời gian, không thể nhanh được, không thể đ̣i họ
trả lời ngay. Đừng thúc họ, cứ để họ chủ động, khi nào trả lời được th́
họ trả lời... Phải rất bí mật. Lộ ra rất nguy hiểm. Chỉ nói khi gặp
riêng chứ không nói khi đàm phán. Việc anh Nguyễn Văn Linh đặt vấn đề
với đại sứ Trương Đức Duy nói sẵn sàng đi Trung Quốc gặp cấp cao nhất,
cũng không nên hỏi lại nếu họ chưa nói tới.”
Những lời dặn ḍ này đối với tôi thực ra là không cần thiết, không phải
v́ tôi sẵn ư thức bảo mật cao, mà bởi v́ ngay từ đầu tôi đă khó chịu với
cái ư nghĩ gọi là “giải pháp Đỏ”, với ư nghĩ bắt tay với bọn diệt
chủng – dù chỉ là gián tiếp - để làm vừa ḷng Trung Quốc.
Nhưng sự việc trở nên phức tạp khi trưa ngày 11/6/90 sau đàm phán phiên
đầu với Từ Đôn Tín tôi về Bộ Ngoại Giao hội báo lại với anh Thạch. Anh
Thạch lúc này đang họp Hội nghị ngoại giao đánh giá t́nh h́nh Đông Âu -
Liên Xô.
Nghe tôi phản ánh t́nh h́nh đàm phán xong, anh liền gạn hỏi tôi có nói
với Từ về “giải pháp Đỏ” không. Tôi nói: “Đồng chí Lê Đức Anh đă dặn
phải thận trọng tránh nói đến vấn đề đó khi đàm phán.” Anh Thạch vặn
lại: “Vậy đồng chí nghe theo ư kiến Bộ trưởng Quốc pḥng hay ư kiến
Bộ trưởng Ngoại giao ?”. Tôi đáp: “Là cán Bộ Ngoại giao, tôi sẵn
sàng chấp hành ư kiến anh, với sự hiểu biết rằng anh nói với tư cách là
Ủỷ viên Bộ Chính trị”.
Lúc ấy tôi thật bất ngờ trước phản ứng của anh Thạch, nhưng đồng thời
cũng cảm nhận được vết rạn nứt trong Bộ Chính trị đă khá sâu.
Phía Trung Quốc tất nhiên không để lọt hiện tượng này v́ chính họ đang
muốn tác động vào nội bộ ta. Chính thái độ quá đặc biệt, quá nhún
ḿnh và cũng quá sơ hở của lănh đạo ta ngày 5 và 6/6/90 đă gây khó khăn
không nhỏ cho ngoại giao ta trong đợt đàm phán này.
Ngay từ hôm đầu đến Hà Nội và trong suốt mấy ngày đàm phán, Từ Đôn Tín
luôn giở giọng cao ngạo, dùng uy lực của chính lănh đạo ta để gây sức ép
với cán bộ ngoại giao ta. Ngay trong lời đáp từ tại buổi tiệc của tôi
chiêu đăi đoàn Trung Quốc tối 9/6/90, Từ đă nói:
“Sau khi nghe đại sứ Trương Đức Duy báo cáo lại, tôi càng tăng thêm
ḷng tin tưởng, tôi tin rằng đồng chí thứ trưởng Trần Quang Cơ và các
đồng chí ở Bộ Ngoại giao Việt Nam nhất định sẽ tuân theo ư nguyện và
tinh thần của các đồng chí lănh đạo Việt Nam, cụ thể hoá vào cuộc trao
đổi với chúng tôi để chúng ta nhanh chóng giải quyết xong vấn đề”.
Vào phiên đàm phán đầu tiên, sáng 11/690, Từ đă t́m cách ghim lại những
điểm có lợi cho Trung Quốc hoặc ít nhất cũng hợp với ư đồ của họ bằng
cách nêu ra “5 nhận thức chung rất bổ ích” mà hai bên đă đạt được
trong cuộc gặp ở Bắc Kinh đầu tháng 5/90:
“Hai
bên đều cho rằng vấn đề Campuchia cần đạt được một giải pháp toàn diện,
công bằng và hợp lư.
Phía Việt Nam bày tỏ đă rút hết quân khỏi Campuchia, chấp nhận sự kiểm
chứng của LHQ và cam kết sẽ không quay lại Campuchia.
Hai bên đều cho rằng, trong thời kỳ quá độ ở Campuchia sau khi Việt Nam
rút hết quân, chấm dứt viện trợ bên ngoài và thực hiện ngừng bắn, cần
thành lập Hội đồng toàn quốc tối cao. Về nguyên tắc, hai bên chúng ta
đều tán thành Hội đồng toàn quốc tối cao phải là cơ cấu quyền lực có
thực quyền. C̣n việc tổ chức Hội đồng đó thế nào, ư kiến của hai bên cơ
bản nhất trí với nhau. Ứng cử viên của Hội đồng đó cụ thể là ai th́ phải
do các bên Campuchia lựa chọn. Trung Quốc, Việt Nam tôn trọng sự lựa
chọn đó. Chúng ta tán thành Hội đồng toàn quốc tối cao không loại trừ
bất cứ bên nào, cũng không để bên nào nắm độc quyền. Về Hoàng thân
Sihanouk, hai bên đều chủ trương Hoàng thân Sihanouk làm Chủ tịch Hội
đồng toàn quốc tối cao.
Vấn đề quân sự trong thời kỳ quá độ, hai bên đều cho rằng để tránh xảy
ra nội chiến và giữ hoà b́nh ở Campuchia, cần có sự sắp xếp thoả đáng
quân đội 4 bên Campuchia. Dĩ nhiên sắp xếp như thế nào, hai bên chúng ta
cần bàn thêm.
C̣n một điểm nữa, các đồng chí Việt Nam bày tỏ từ nay về sau sẽ không
nhắc đến vấn đề diệt chủng, kể cả trong các văn kiện quốc tế cũng không
nêu nữa”.
V́ vậy Từ đề nghị tập trung bàn hai điểm tồn tại của lần gặp trước là
vấn đề phạm vi quyền lực của SNC và vấn đề lực lượng vũ trang của các
bên Campuchia trong thời kỳ quá độ.
Trong 3 ngày đàm phán, mỗi khi phía Trung Quốc thấy ta không chấp nhận
yêu sách vô lư của họ về hai vấn đề thuộc nội bộ Campuchia này, nhất là
khi ta kiên tŕ công thức “hai bên Campuchia” – tức là hai chính
phủ PhnomPenh và chính phủ Campuchia Dân chủ, hoặc có thể nói “các bên
Campuchia”, nhưng dứt khoát bác công thức “4 bên Campuchia” của
họ mang hàm ư chấp nhận vai tṛ hợp pháp của bọn Khmer đỏ và nhắc đến
thoả thuận Tokyo, th́ Từ lại lên giọng chê trách tôi làm trái ngược ư
kiến của lănh đạo Việt Nam.
Y đưa ra lập luận là lănh đạo Việt Nam đă đưa ra ư “hợp tác giữa 2
phái cộng sản Khmer” tức là1 nhận
từ “4 bên Campuchia” (có nghĩa là đưa Khmer đỏ lên ngang với Chính phủ
PhnomPenh).
Từ nói: “Phát biểu của các đồng chí không nên trái ngược với các đồng
chí lănh đạo Việt Nam. ư kiến của Bộ Ngoại giao nên nhất trí với ư của
lănh đạo cấp cao, không nên có hai tiếng nói trái ngược”.
Tôi phải đưa Từ trở về vị trí của y: “Đồng chí có thể yên tâm, không
cần lo hộ chúng tôi là Bộ Ngoại giao có tiếng nói khác Trung ương. Đảng
chúng tôi nhất trí từ trên xuống dưới. Bộ Ngoại giao là một bộ phận chịu
sự lănh đạo chặt chẽ của Bộ Chính Trị chúng tôi”.
Về vấn đề Hội đồng Dân tộc Tối cao Campuchia, Trung Quốc kiên tŕ 3 điểm:
a. SNC phải là cơ quan chính quyền tối cao hợp pháp duy nhất, đại diện
cho độc lập, chủ quyền, thống nhất của Campuchia. Về mặt đối ngoại, đại
diện cho Campuchia trên quốc tế, giữ ghế của Campuchia ở LHQ; về mặt đối
nội, thực hiện quyền lập pháp và quản lư hành chính, trực tiếp nắm các
ngành quan trọng ảnh hưởng đến tổng tuyển cử tự do, công bằng gồm quốc
pḥng, ngoại giao, nội vụ, tuyên truyền, tài chính (với hiểu ngầm là xoá
5 bộ này của chính quyền PhnomPenh).
b. Không loại bên nào (tức là không loại Khmer Đỏ), không bên nào độc
quyền.
c. Thành phần, số lượng do 4 bên Campuchia bàn bạc và quyết định.
Sihanouk làm chủ tịch SNC (thực chất là bác bỏ Thông cáo chung Tokyo đă
thoả thuận là Hội đồng gồm 12 người, chia đều cho 2 bên, mỗi bên 6 người).
Tôi khẳng định SNC có trách nhiệm và quyền lực trong việc thực hiện các
hiệp định được kư kết về Campuchia, về hoà giải dân tộc và về tổng tuyển
cử; hai chính quyền hiện tồn tại không được làm việc ǵ cản trở trách
nhiệm và quyền lực trên đây của SNC. C̣n việc các bên Campuchia chấp
nhận ư kiến của Trung Quốc đến đâu là quyền của các bên Campuchia, Việt
Nam và Trung Quốc không thể thay các bên Campuchia sắp đặt việc nội bộ
của Campuchia.
Về vấn đề lực lượng vũ trang, Trung Quốc đ̣i ghi vào biên bản thoả thuận:
quân đội của 4 bên Campuchia phải tập kết vào những địa điểm của Ủỷ ban
giám sát của LHQ chỉ định. C̣n việc giảm quân hay giải pháp th́ để cho
SNC hoặc chính phủ sau bầu cử quyết định.
Tôi nói: “Việt Nam tôn trọng thoả thuận giữa các bên Campuchia ở
Tokyo là lực lượng vũ trang ở đâu đóng đó. Nguyên tắc về lực lượng vũ
trang các bên Campuchia là chấm dứt nội chiến càng sớm càng tốt, duy tŕ
ngừng bắn, không can thiệp vào đời sống chính trị, không can thiệp vào
tổng tuyển cử để bảo đảm cho tổng tuyển cử được thực sự tự do và công
bằng. C̣n các biện pháp để thực hiện các nguyên tắc trên sẽ do các bên
Campuchia thoả thuận với nhau”.
Sau khi tỏ phản ứng về lập trường của ta, Từ nói:
“Tôi muốn nói thật rằng nếu lần này chúng ta đi một bước không hay th́
sẽ có hậu quả sau này. Không những hai chúng ta thất vọng mà kết quả c̣n
trái ngược với nguyện vọng của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và
các đồng chí lănh đạo khác nói với chúng tôi. Chúng ta đang ở ngă ba
đường, lựa chọn thế nào ? Thời gian không cho phép. Trung tuần tháng 7,
5 nước Hội đồng bảo an họp lại. Trung Quốc không thể không tỏ thái độ.
Nếu Trung Quốc và Việt Nam không đạt được kết quả giải quyết vấn đề
Campuchia th́ ḷng mong muốn của chúng ta sẽ chịu hậu quả lớn.”
Như để thuyết phục ta chấp nhận lập trường của họ, Từ đưa ra dự kiến của
Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia theo 5 bước:
Trung – Việt đạt được thoả thuận về giải pháp vấn đề Campuchia và ghi
nhận lại bằng một biên bản nội bộ;
Họp ngoại trưởng 5 nước Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Inđônêxia, Lào
và ra tuyên bố chung;
Họp hội nghị có tính chất khu vực giữa 5 nước trên và 4 bên Campuchia;
Họp 5 nước Hội đồng Bảo an và 4 bên Campuchia.
Họp hội nghị quốc tế Paris về Campuchia.
Từ nói chỉ trao đổi nội bộ với ta dự kiến này ở đây, không nói với 4
nước Uỷ viên thường trực Hội đồng bảo an, cũng không nói với Liên Xô để
tránh sự quấy nhiễu của bên ngoài. Tôi tránh b́nh luận cụ thể, chỉ nói
đây là một gợi ư thú vị, rất đáng suy nghĩ, song cần làm sao cho bước
khởi động của chúng ta ở đây có kết quả th́ toàn bộ kế hoạch mới có khả
năng triển khai được.
Chiều ngày 12/6/90, theo yêu cầu của phía Trung Quốc, đă có cuộc họp hẹp
giữa hai trưởng đoàn. Qua đó Từ nhờ tôi chuyển tới lănh đạo Việt Nam trả
lời của lănh đạo Trung Quốc về những ư kiến mà Nguyễn Văn Linh và Lê Đức
Anh đă nói với đại sứ Trung Quốc ngày 5 và 6/6/90:
“Lănh đạo Trung Quốc rất coi trọng quan hệ Trung – Việt, Lănh đạo Trung
Quốc cũng rất coi trọng những ư kiến Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và đồng
chí Lê Đức Anh đă nói với đại sứ Trương Đức Duy. Phía Trung Quốc cho
rằng quan hệ Trung–Việt sớm muộn cũng sẽ b́nh thường hoá. Hai bên đều
cần cùng nhau cố gắng để thực hiện. Vấn đề Campuchia, cuộc chiến tranh
Campuchia đă kéo dài hơn 10 năm. Đây là vấn đề toàn thế giới quan tâm,
các nước trong khu vực, nhất là ASEAN, cũng rất quan tâm. Đối với hai
nước Trung Quốc và Việt Nam, nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết hiện nay
là trên cơ sở những nhận thức chung đă đạt được, tiếp tục trao đổi ư
kiến về hai vấn đề tồn tại (vấn đề quyền lực của Hội Đồng tối cao và
việc xử lư quân đội của các bên Campuchia), làm sao cho có tiến triển
hai vấn đề này. Nếu được như vậy, chúng ta sẽ góp phần vào việc thực sự
giải quyết vấn đề Campuchia. Bước đi này là hết sức quan trọng. Chỉ có
đi xong bước này, chúng ta mới có thể suy nghĩ đến những bước sau. Cũng
có nghĩa là chỉ có đi xong bước này lănh đạo Trung Quốc mới suy nghĩ về
việc gặp cấp cao và việc thúc đẩy hai phái cộng sản Khmer hoà giải với
nhau”.
Nghe Từ đọc xong, tôi hỏi lại: “Như vậy có phải là chỉ sau khi giải
quyết xong vấn đề quyền lực của SNC và vấn đề lực lượng vũ trang
Campuchia th́ Trung Quốc mới nghĩ đến việc gặp cấp cao?”
Từ khẳng định đúng là như vậy và nói thêm: “Giải quyết hai vấn đề đó
có nghĩa là Trung Quốc và Việt Nam đă nhất trí cơ bản về việc giải quyết
vấn đề Campuchia, sẽ làm thành biên bản chung ghi các điều đă nhất trí
làm cơ sở để thúc đẩy giải quyết vấn đề Campuchia, tác động đối với bạn
bè mỗi bên và mở đầu quá tŕnh b́nh thường hoá quan hệ hai nước”.
Từ nói: “Nhất quyết phải giải quyết xong hai điểm tồn tại đó để có
được giải pháp toàn bộ, không nên vượt qua vấn đề Campuchia. Giải quyết
xong vấn đề Campuchia th́ các bước tiếp theo về gặp gỡ cấp cao và b́nh
thường hoá quan hệ giữa hai nước sẽ dễ giải quyết”.
Ngay sau đó, tôi sang gặp Thủ tướng Đỗ Mười báo cáo t́nh h́nh cuộc đàm
phán để chuẩn bị cho việc anh ấy tiếp Từ Đôn Tín chiều hôm sau như đă dự
định. Tôi nói:
“Chỉ với việc anh Linh và anh Lê Đức Anh gặp Trương Đức Duy trước khi
Từ Đôn Tín tới Hà Nội đă làm cho phía Trung Quốc lên giọng trong đàm
phán, nay nếu anh Linh hoặc anh Mười lại tiếp hắn nữa th́ rất không nên”.
Nghe tôi tŕnh bày xong, Đỗ Mười bảo sở dĩ anh nghĩ đến chuyện gặp Từ là
v́ sáng 10/6/90, Lê Đức Anh đến yêu cầu Đỗ Mười gặp Từ, nay như vậy th́
không cần gặp nữa. Đỗ Mười bảo tôi cùng đi ngay sang báo cáo sự t́nh với
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh v́ anh Linh cũng dự định tiếp Từ.
Sau khi nghe tôi tŕnh bày, có một phút lặng đi, tôi nghĩ bụng Tổng bí
thư chắc bị bất ngờ về những câu trả lời quá ư lạnh nhạt của lănh đạo
Trung Quốc đối với những điều tâm huyết mà anh và Lê Đức Anh đă thổ lộ
với đại sứ Trương Đức Duy. Rồi anh Linh cho ư kiến là trong t́nh h́nh
này anh Mười hoặc một cấp cao khác của ta không cần tiếp Từ Đôn Tín nữa.
Ba ngày đàm phán với Từ nói chung là căng, nhưng giông tố chỉ nổ ra khi
Từ Đôn Tín đến chào Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch chiều 13/6/90 trước khi
đoàn Trung Quốc rời Hà Nội.
Ngay từ đầu không khí tṛ chuyện đă không lấy ǵ làm mặn mà lắm. Nhưng
đến khi Từ nói:
“Các đồng chí nói chúng ta nên khuyên hai phái cộng sản Campuchia hoà
giải với nhau, (Hói đó là mong muốn chân thành của Việt Nam Nhưng trên
thực tế, các đồng chí cố sức tiêu diệt Khmer Đỏ. Nếu lănh đạo Việt Nam
muốn có sự hoà giải giữa hai nhóm cộng sản Khmer th́ lẽ dĩ nhiên phải
chấp nhận “4 bên”.] Chúng tôi không thể hiểu được trong hai giọng nói đó,
cái nào là thật, cái nào là giả. Nghe tiếng nói này th́ tiếng nói kia là
giả dối, nghe tiếng nói kia th́ tiếng nói này là giả dối. Mong rằng sau
này các đồng chí không nên làm như vậy”,
anh Thạch đă phản ứng mạnh: “Chúng tôi không đ̣i các đồng chí nói chỉ
có hai bên Campuchia; các đồng chí cũng không thể đ̣i chúng tôi nói 4
bên. Chúng tôi nói các bên, không loại bỏ bên nào là đủ rồi. Nếu nói
khác đi là chống lại Hội nghị Tokyo. Tôi nói thật, dùng thủ đoạn xuyên
tạc th́ rất khó đàm phán... Tôi rất trọng đồng chí nhưng rất không hài
ḷng với những điều đồng chí nói v́ đồng chí có những xuyên tạc. Như thế
rất khó đàm phán”.
Cuộc nói chuyện kết thúc bằng câu “Chào Ngài ! ” của Từ Đôn Tín. Và anh
Thạch cũng đáp lại bằng từ đó thay vào từ “đồng chí”.
Tôi không có mặt trong buổi anh Thạch tiếp Từ Đôn Tín, nhưng khi nghe kể
lại chuyện đó tôi không hề ngạc nhiên.
Tôi nhớ như in cái giọng ngạo mạn kiểu “sứ giả thiên triều” của Từ trong
buổi gặp ngày 13/6/90: “Lần này tôi sang Hà Nội chủ yếu để bàn với
các đồng chí Việt Nam về vấn đề Campuchia, đồng thời cũng xem xét nguyện
vọng của các đồng chí, chúng tôi đă chuẩn bị ư kiến về quan hệ hai nước
Trung Quốc - Việt
Khi nói “nguyện vọng của các đồng chí” là Từ muốn nói đến những điều mà
anh Linh và Lê Đức Anh đă nói với đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy ngày
5 và 6/6/90. Đây là cuộc đàm phán giữa hai quốc gia b́nh đẳng, làm sao
Trung Quốc có thể nói đến chuyện “xem xét nguyện vọng” của lănh đạo Việt
Nam được. Thêm vào đó, tâm trạng Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch trong những
ngày này lại đang nặng chĩu những suy tư khác.
Sau khi xảy ra va chạm giữa Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch và trưởng đoàn
Trung Quốc Từ Đôn Tín, sức ép vào nội bộ ta càng mạnh hơn: suốt nửa cuối
1990 đến 1991, Trung Quốc phớt lờ Bộ Ngoại giao, chỉ làm việc với Ban
Đối ngoại; Ngoại trưởng Tiền Kỳ Tham từ chối gặp Ngoại trưởng Nguyễn Cơ
Thạch tại kỳ họp Đại hội Đồng LHQ ở Nữu-ước tháng 9.90.
Trước đó, ư đồ Trung Quốc phân hoá nội bộ ta đă bộc lộ rơ: muốn ta phải
thay đổi Bộ trưởng Ngoại giao. Không chỉ thế, Trung Quốc c̣n lợi dụng sự
cả tin của lănh đạo ta để phá hoại uy tín đối ngoại của ta bằng cách
dùng thủ đoạn cố ư lộ tin ra với các nước.
Liều thuốc của thày Tàu bốc cho ta thật là đắng, thế nhưng đâu có dă
được tật !
Trần Quang Cơ
Hồi kư “Hồi ức và Suy nghĩ” (Trích)
HỘI NGHỊ THÀNH
ĐÔ 1990:
Bài
3/4:
|