Phỏng vấn ông Lê Hùng về thỏa ước Thành Đô
***
HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ 1990
Bài 3:
QUỶ KẾ BÀNH TRƯỚNG, BÁ QUYỀN CỦA TRUNG QUỐC
ĐỐI VỚI VIỆT NAM VÀ SỰ LỆ THUỘC, QUỲ PHỤC CỦA LÊ ĐỨC ANH
Hồi kư "Hồi Ức và Suy Nghĩ" của Trần Quang Cơ
nhà báo Trần Quang Thành giới thiệu
 |
Đỗ Mười và Trương Đức Duy |
Lời giới thiệu: Đại hội lần thứ bảy Đảng Cộng sản Việt Nam
(17-27/6/1991) kết thúc, Đỗ Mười được bầu làm Tổng bí thư, Lê Đức Anh
chiếm vị trí thứ hai trong Đảng nắm giữ 3 khối quan trọng nhất: Quốc pḥng,
An ninh, Ngoại giao và lên chức Chủ tịch nước, Đào Duy Tùng là Ủy viên
Bộ Chính trị, thường trực Ban bí thư.
Bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng thâu tóm quyền lực cao nhất
trong Đảng, nhưng thực chất người có ảnh hưởng lớn nhất là Lê Đức Anh.
Từ sau Đại hội VII, bộ măt bành trướng, bá quyền của tập đ̣an thống trị
Bắc Kinh đối với Việt Nam ngày càng quỷ quyệt, can thiệp sâu và trắng
trợn vào nội bộ lănh đạo Việt Nam. Sự quỳ phục của Lê Đức Anh ngày càng
bộc lộ rơ rệt trong việc b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Dưới tiêu đề “Đai hội VII và cái giá phải trả cho việc b́nh thường hóa
quan hệ với Trung Quốc:” trong chương 18 hồi kư “Hồi ức và Suy nghĩ”,
nhà ngoại giao kỳ cựu Trần Quang Cơ viết:
“Từ 17 đến 27.6.91 Đảng Cộng sản Việt Nam họp Đại hội lần thứ VII đưa
lại nhiều thay đổi quan trọng về nhân sự: Đỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh
làm Tổng bí thư; Lê Đức Anh nay nghiễm nhiên giữ vị trí thứ 2 trong Đảng,
Uỷ viên thường trực Bộ Chính trị kiêm Bí thư Trung ương phụ trách cả 3
khối quốc pḥng – an ninh – ngoại giao và lên chức Chủ tịch nước. Vơ Văn
Kiệt được giới thiệu với Nhà nước cử làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng;
Đào Duy Tùng thường trực Ban bí thư. Bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy
Tùng nắm bộ phận thường trực của Bộ Chính trị và của Ban Bí thư. Đại
tướng Vơ Nguyên Giáp bị gạt ra khỏi chức Ủỷ viên Trung ương. C̣n Nguyễn
Cơ Thạch bị bật ra khỏi Bộ Chính trị và chuẩn bị thôi chức Bộ trưởng Bộ
Ngoại Giao... (thực ra những thay đổi về nhân sự trong Bộ Chính trị đă
được quyết định từ tháng 5 và Trung Quốc đă biết). Dư luận quốc tế xôn
xao cho rằng Nguyễn Cơ Thạch là “vật tế thần” trong việc Việt Nam b́nh
thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng đó mới chỉ là một cách
nói đơn giản v́ vấn đề không chỉ là b́nh thường hoá quan hệ mà là phụ
thuộc hoá quan hệ.
Trước hết vấn đề đặt ra là ai sẽ thay anh Thạch giữ chức bộ trưởng ngoại
giao ?
Từ đầu tháng 7, tôi đă nhiều lần được triệu tập lên gặp Tổng bí thư Đỗ
Mười và Trưởng ban Tổ chức trung ương Lê Phước Thọ (người thay Nguyễn
Đức Tâm), để được thông báo và đả thông về dự định đưa tôi làm Bộ trưởng
Ngoại giao.
Lần gặp sáng ngày 10/7/91, thấy tôi vẫn từ chối, Đỗ Mười đă hiểu lầm
tưởng tôi không nhận v́ chưa được vào Bộ Chính trị như Bùi Thiện Ngộ -
người thay Mai Chí Thọ làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ - nên hứa sẽ giải quyết
chuyện đó sau khi nhận chức Bộ trưởng Ngoại giao.
Tôi nói chỉ v́ lư do “sức khoẻ” mà xin không nhận:
“45 năm nay tôi liên tục công tác, cố gắng làm tốt các công việc được
giao, không từ nan. Song lần này không thể nhận. Tôi chỉ có nguyện vọng
và làm nốt công việc Thứ trưởng Ngoại giao. Đề nghị các anh quyết định
theo phương án chúng tôi đề nghị ngày hôm qua: cử anh Vũ Oanh hay anh Vũ
Khoan. Nhân đây tôi xin phản ảnh tư tưởng chung của anh em cán bộ nhân
viên Bộ Ngoại giao là có sự đối xử chưa công bằng với Ngoại giao”.
V́ sao tôi được người ta chọn để thay Nguyễn Cơ Thạch tuy biết rơ tôi có
cùng quan điểm về chính trị đối ngoại với anh Thạch ? Tôi nghĩ có 2 lư
do: một là, che đậy ư nghĩa chính trị của việc thay thế Nguyễn Cơ Thạch; hai
là, cơ chế mới về đối ngoại sau Đại hội VII có khả năng vô hiệu hoá hoàn
toàn mới chủ trương và hành động sai khác với quan điểm của mấy vị trong
Ban Thường trực Bộ Chính trị mới.
Sau khi tôi được miễn, đă có một cuộc vận động khá sôi nổi quanh vấn đề
này. Những tên tuổi như Vũ Oanh, Hồng Hà, Hoàng Bích Sơn, Vũ Khoan,
Nguyên Dy Niên… được nói tới. Cuối cùng Nguyễn Mạnh Cầm, lúc đó đang là
Đại sứ ta tại Liên Xô được chọn, mặc dù khi ấy anh c̣n rất lưỡng lự.
Sau Đại hội VII, mọi vấn đề quan trọng về đối ngoại của Nhà nước đều do
Hồng Hà, Bí thư Trung ương, phụ trách đối ngoại, dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Lê Đức Anh và tất nhiên được sự tán thưởng của Tổng bí hư Đỗ
Mười, quyết định. Những phần công việc xưa nay vốn do Bộ Ngoại giao đảm
nhiệm nay đều do Hồng Hà và Ban Đối ngoại chủ tŕ.
Một thí dụ điển h́nh về v́ ư đồ cá nhân họ sẵn sàng bỏ qua danh dự và
quốc thể:
Ngày 5/8/91, tại cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng, Hồng Hà tuyên bố:
‘Từ nay trong quan hệ với Trung Quốc các ngành cứ tập trung ở chỗ anh
Trương Đức Duy (Đại sứ Trung Quốc), không cần qua sứ quán Việt Nam ở Bắc
Kinh’.
Lê Đức Anh cho biết khi ở Trung Quốc, Phó ban Đối ngoại Trung Quốc Chu
Lương có đề nghị: v́ lư do kỹ thuật, quan hệ giữa hai Đảng xin làm qua
Trương Đức Duy. Hôm sau, Hồng Hà với tư cách Trưởng ban Đối ngoại tiếp
Đại sứ Campuchia Ouch Borith, đă thông báo:
“Theo sự phân công của Bộ Chính trị Việt Nam, từ nay đồng chí Lê Đức
Anh và đồng chí Hồng Hà sẽ phụ trách việc thảo luận giải pháp Campuchia
và các vấn đề liên quan. Nếu lănh đạo Campuchia muốn bàn các vấn đề trên
th́ đề nghị quan hệ và thảo luận trực tiếp với 2 đồng chí đó.
Tổng bí thư Đỗ Mười gặp Đại sứ Trương Duy Đức (9/7/1991)
Ngày 9/7/91, vừa được bầu làm Tổng bí thư, Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc
Trương Đức Duy tỏ ư muốn cử Đặc phái viên đi Bắc Kinh để thông báo về
Đại hội VII và trao đổi về quan hệ giữa hai nước.
Trước đó ít ngày–ngày 11/6/91 – Bộ Ngoại giao ta cũng đă gặp đại sứ
Trung Quốc đề nghị mở lại đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao hai nước.
Ngày 17/7, Trung Quốc trả lời đồng ư gặp cấp Thứ trưởng ở Bắc Kinh từ
5/8 đến 10/8.
Hai ngày sau, Trung Quốc trả lời đồng ư việc ta cử Đặc phái viên gặp
lănh đạo Trung Quốc, nhưng lại sắp xếp cuộc gặp Đặc phái viên Đảng trước
cuộc gặp Thứ trưởng Ngoại giao…
Việc làm trên cho thấy một mặt Trung Quốc muốn gặp ta ở cả hai cấp, mặt
khác muốn dùng những thoả thuận với cấp Đặc phái viên để ép ta trong
cuộc gặp cấp Thứ trưởng Ngoại giao. Để đề cao công việc này, phía Trung
Quốc đă đề nghị thay chữ “Đặc phái viên” thành “đoàn Đại diện đặc biệt
của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam” tuy Đoàn chỉ có 2
thành viên là Lê Đức Anh và Hồng Hà.
Hồng Hà lúc đó là Bí thư Trung ương, phụ trách đối ngoại. Phụ tá đoàn là
Trịnh Ngọc Thái, phó ban Đối ngoại của Đảng. Tôi nhớ khi đó Bộ Ngoại
giao có đề nghị có một Thứ trưởng Ngoại giao là uỷ viên Trung ương đi
với đoàn để nắm t́nh h́nh vận dụng vào cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng
Ngoại giao ngay sau đó, nhưng đề nghị không được chấp nhận. Đại sứ Việt
Nam tại Trung Quốc Đặng Nghiêm Hoành cũng không được tham dự các hoạt
động của đoàn, trong khi đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, Trương Đức Duy
lại có mặt trong mọi hoạt động chính thức của đoàn tại Trung Quốc.
Ngày 28/7/91, đoàn đă đến Bắc Kinh và trong mấy ngày sau đó đă gặp Kiều
Thạch, Lư Bằng, Giang Trạch Dân thông báo khá chi tiết về Đại hội VII.
Thông báo cả những ư kiến khác nhau quá tŕnh thảo luận, tranh luận và
việc biểu quyết những vấn đề quan trọng trong Đại hội, và cơ cấu nhân sự
của Ban Chấp hành Trung ương mới..., Giang Trạch Dân và Lư Bằng tỏ ra
quan tâm đến việc Việt Nam sẽ có Ngoại trưởng mới (thay Nguyễn Cơ Thạch)
trong kỳ họp Quốc hội tháng 8/91, Giang tỏ ư hài ḷng: “Từ đáy ḷng ḿnh,
tôi hết sức hoan nghênh kết quả Đại hội VII của các đồng chí Việt Nam”.
Đặc biệt mặc dù chuyến đi có mục đích gặp lănh đạo Trung Quốc thông báo
về Đại hội VII và bàn quan hệ hai nước, nhưng Lê Đức Anh và Hồng Hà đă
chủ động xin gặp Từ Đôn Tín tới 2 lần, chiều 297 và tối 317 để tạ lỗi
(?).
Mở đầu cuộc gặp chiều 29/7, Lê Đức Anh đă nói:
“Năm ngoái khi đồng chí Từ Đôn Tín sang Việt Nam đă xảy ra một số trục
trặc không hay lắm do phía chúng tôi gây ra (!) Đồng chí Nguyễn Văn Linh
và chúng tôi khi biết việc này, chúng tôi không vui lắm. Hôm nay gặp
đồng chí, tôi nói t́nh cảm của đồng chí Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và của
tôi... T́nh h́nh trục trặc trong quan hệ là một việc đau ḷng, nhất là
giữa những người cộng sản. Khúc nhạc cũ đă qua rồi, mong các đồng chí
yên tâm”.
C̣n Từ th́ cũng mượn dịp này để than phiền về đại sứ Đặng Nghiêm Hoành:
“Một năm nay đồng chí ấy không gặp tôi, trừ khi gặp ở các cuộc chiêu
đăi. Đây là lần đầu tiên tôi gặp đồng chí Hoành kể từ tháng 6 năm ngoái” (sự
thực là phía Trung Quốc đă có thành kiến với anh Hoành từ trong cuộc đàm
phán tháng 6/90 ở Hà Nội)
Từ không quên nhắc đến điều kiện không thể thiếu có thể b́nh thường hoá
quan hệ với Việt Nam: “Tôi rất hoan nghênh đồng chí Lê Đức Anh và đồng
chí Hồng Hà là từ nay không nói diệt chủng nữa. Khi về Hà Nội nếu gặp
Campuchia đề nghị các đồng chí cũng nói ư này... Nếu các đồng chí lănh
đạo Việt Nam sang Trung Quốc mà cái đuôi Campuchia vẫn c̣n th́ chúng tôi
khó nói với nhân dân. Mong vấn đề Campuchia được giải quyết th́ khi b́nh
thường hoá quan hệ chúng tôi có thể ăn nói với nhân dân Trung Quốc và
nhân dân thế giới”.
Để dọn đường cho cuộc gặp cấp Thứ trưởng ở Bắc Kinh tháng 8/91, tối 31/7
Hồng Hà đảm bảo với Từ Đôn Tín: “Đồng chí Lê Đức Anh và tôi sẽ làm việc
trực tiếp với Thứ trưởng Nguyễn Dy Niên (người được chỉ định đi đàm phán
với Trung Quốc chỉ v́ chưa có “tiền sử” với Trung Quốc) trước khi đồng
chí ấy đi Trung Quốc. Chúng tôi phải báo cáo với Bộ Chính trị để có ư
kiến chỉ đạo không những về nội dung mà cả về tinh thần và thái độ làm
việc. Tinh thần của chúng tôi là phấn đấu làm cho cuộc gặp thành công”.
Sau khi đă cam kết từ nay không nói đến vấn đề diệt chủng nữa, Hồng Hà
hỏi Từ: “Tôi muốn hỏi đồng chí ngoài vấn đề diệt chủng, c̣n hai vấn đề
gai góc là vấn đề quân đội các bên Campuchia và vai tṛ LHQ th́ phương
hướng giải quyết nên thế nào, để chúng tôi có thể góp phần làm cho cuộc
gặp thứ trưởng Việt – Trung ở Bắc Kinh sắp tới đạt kết quả tốt”.
Xin ư kiến đối phương và hướng giải quyết vấn đề để đàm phán trước khi
đàm phán, thật là chuyện có một không hai trong lịch sử đối ngoại !
Sau khi ở Trung Quốc về, ngày 4/8/91, Lê Đức Anh và Hồng Hà gặp tôi và
Nguyễn Dy Niên tại Văn pḥng Trung ương Đảng để chuẩn bị cho Niên đi đàm
phán với Trung Quốc.
Sau khi anh Niên đọc bản đề án của Bộ Ngoại giao, tôi nói:
“Anh Hoành (đại sứ ta ở Trung Quốc) vừa điện về phía Trung Quốc thông
báo có 3 buổi làm việc nhưng họ nói có thể làm một buổi là xong. Chắc
chắn Từ Đôn Tín sẽ đưa văn bản buộc chúng ta phải thoả thuận. Nếu ta
nhận, họ sẽ x́ ra cho các nước P5, ASEAN và bạn Campuchia. Ta sẽ ở vào
thế phản bội đồng minh, phản bội bạn bè. Nếu ta đ̣i sửa văn bản của
Trung Quốc th́ sẽ không ra được văn bản, đàm phán sẽ thất bại. Chúng tôi
đă xem lại biên bản thấy Trung Quốc gắn rất chặt vấn đề Campuchia với
việc b́nh thường hoá quan hệ, vẫn coi Campuchia là điều kiện. Trung Quốc
rất khôn, khi gặp cấp cao chỉ tập trung vào vấn đề quan hệ hai nước, c̣n
cái xương để lại. Gặm cái xương này, chúng ta phải giải quyết vấn đề có
tính nguyên tắc. Ta quyết tâm b́nh thường hoá quan hệ với Trung Quốc
nhưng không được phá quan hệ với Campuchia và không được để thế giới
thấy anh Việt Nam là người tráo trở”.
Biết tôi quá gai góc, không chịu chấp nhận ư đồ thoả hiệp vô nguyên tắc
với Trung Quốc, Lê Đức Anh và Hồng Hà chỉ nói chung chung về chuyến đi
Bắc Kinh vừa qua.
Hồng Hà nói: “Tinh thần tôi nắm được là ư Trương Đức Duy và Từ Đôn Tín
đều lo cuộc gặp Thứ trưởng thất bại. Từ có hỏi: Không biết đồng chí Thứ
trưởng nào gặp tôi có nắm được tinh thần này không ?”
Tôi liền bảo: “Như vậy càng rơ là họ có yêu cầu cao nên họ sợ ta không
thể chấp nhận được”.
Hồng Hà nói: “Tôi hiểu họ muốn b́nh thường hoá quan hệ là chính nên họ
lo”.
Tôi đáp: “Về mặt này th́ phải nói là Việt Nam lo hơn v́ Việt Nam mót
b́nh thường hoá quan hệ với Trung Quốc hơn.”
Vào cuối buổi họp, Hồng Hà nói: “Chuyến đi của anh Niên là thuận lợi,
sau chuyến đi của anh Lê Đức Anh. Anh Niên cũng là nhân vật mới, không
có “tiền sử”. Khi nhắc đến tháng 6/90 họ rất cay cú”.
Lê Đức Anh thêm vào: “Sau tháng 6/90 lại có phát biểu với báo chí của
hai bên nên càng tích tụ thêm, gắng thêm”. (ư nói đến lần sau đàm phán
tháng 6/90, giữa tôi và Từ Đôn Tín có sự phê phán nhau trên báo chí). Và
đến chiều, khi họp Thường trực Bộ Chính trị bàn về việc đàm phán với
Trung Quốc họ chỉ triệu tập anh Niên, không triệu tập tôi.
Được biết trong cuộc họp này Tổng bí thư Đỗ Mười đă khẳng định là không
nên v́ vấn đề Campuchia mà cản trở việc b́nh thường hoá quan hệ của ta
với Trung Quốc.
Về vấn đề Campuchia, họ chỉ thị cho anh Niên thoả thuận với phía Trung
Quốc:
1. Không nói về vấn đề diệt chủng. Lê Đức Anh nói phải dứt khoát thôi
vấn đề diệt chủng. Và Tổng bí thư Đỗ Mười nhấn thêm: “Nếu nói vấn đề
diệt chủng tức là đồng minh với Mỹ chống Trung Quốc” (!)
2. Nâng cao vai tṛ SNC Campuchia, hạ thấp vai tṛ LHQ.
3. Giảm quan các bên Campuchia 50%
Để đảm bảo cuộc đàm phán không đi chệch khỏi quỹ đạo đă dàn xếp trước
với Trung Quốc, Hồng Hà c̣n để Trịnh Ngọc Thái, phó ban Đối ngoại, ở lại
Bắc Kinh để tham gia đoàn đàm phán, thực chất để giám sát Nguyễn Dy Niên
có theo đúng những điều họ đă thoả thuận trước với Trung Quốc không.
Ngày 10/8/91, sau khi cái gọi là cuộc đàm phán này đạt kết quả đúng ư
Trung Quốc (hoan nghênh Sihanouk giữ chức chủ tịch SNC, ủng hộ văn kiện
khung của LHQ về giải pháp Campuchia), vào đúng ngày Quốc hội Việt Nam
thông qua việc bổ nhiệm Nguyễn Mạnh Cầm thay Nguyễn Cơ Thạch làm Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao, Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham nhận tiếp
Nguyễn Dy Niên và ngỏ lời mời tân Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm thăm
Trung Quốc ngày 16/9/91 để chuẩn bị cho cuộc gặp cấp cao Trung – Việt ở
Bắc Kinh.
Ta đă dự kiến sau cuộc đàm phán ở Bắc Kinh sẽ sang PhnomPenh thông báo
cho bạn Campuchia nhưng tối 18/8/91 Hồng Hà lại gọi điện chỉ thị: “Theo
ư kiến đồng chí Lê Đức Anh, anh Niên không phải đi Campuchia thông báo
với bạn nữa và cũng không thông báo cho bất cứ ai về cuộc đàm phán ở Bắc
Kinh vừa qua” (mặc dù phía Trung Quốc đă thông báo cho các nước ASEAN và
các nước phương Tây rồi). Và c̣n nói thêm: “Từ nay trở đi, trên giấy
trắng mực đen đừng ghi ư đồ của Trung Quốc nữa (?) v́ vấn đề này Bộ
Chính trị đă nắm rồi.”
Nói chung, từ sau Đại hội VII, tiến tŕnh b́nh thường hoá quan hệ Việt
Nam – Trung Quốc như cỗ máy đă được tra dầu đầy đủ, diễn biến trơn tru
theo tŕnh tự đă định.
Ngày 5-10/11/91, sau khi Hiệp định về Campuchia được kư kết ở Pari, Tổng
bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Vơ Văn Kiệt thăm chính thức Cộng ḥa Nhân
dân Trung Hoa để hoàn thành việc b́nh thường hoá mối quan hệ bị trục
trặc lớn từ tháng 2/79.
Nhưng trong khi lănh đạo ta ôm kỳ vọng cùng Trung Quốc “bảo vệ chủ nghĩa
xă hội chống đề quốc” th́ họ đă xác định quan hệ với ta là “thân nhi bất
cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đầu” (thân nhưng không gần, sơ nhưng
không xa, đấu tranh nhưng không đánh nhau).
Trung Quốc nói thế song luôn luôn lấy thế nước lớn để lấn chiếm lănh thổ
lănh hải ta, và hiểm độc nhất là không ngừng tác động vào nội bộ ta.”
Trần Quang Cơ
Hồi kư “Hổi ức và Suy nghĩ” (Trích)
HỘI NGHỊ THÀNH
ĐÔ 1990:
Bài 4/4:
|