Phạm Bá Hoa
Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam
Cộng Ḥa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa gây ra. Trong
bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc
gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ
“xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lănh đạo cộng
sản Việt Nam với ḷng thù hận đă đày đọa chúng
tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là
trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm,
riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và
Quân Lực mà tôi phục vụ không c̣n nữa, nhưng
linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn
nguyên vẹn trong tôi. Tôi không hận thù lănh
đạo Các Anh, nhưng tôi không bao giờ quên quá
khứ đau thương tàn bạo mà họ gây ra cho Tổ Quốc
và Dân Tộc! V́ vậy mà tôi chưa bao giờ, và sẽ
không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương
tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.
Xin gọi chung Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt
Nam là Các Anh để tiện xưng hô. Chữ “Các Anh”
viết hoa, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ
huy, ngoại trừ lănh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn,
Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Pḥng.
Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các
Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân,
v́ Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi
đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng
chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi
gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
Nội dung thư này, tôi tổng hợp các nguồn tin tức
khác nhau, liên quan đến hối lộ trong vụ Việt
Nam “in tiền polymer tại Australia”.
Thứ nhất.
Tư Pháp Australia và vụ hối lộ in tiền Polymer.
Ngày 29/7/2014,
tổ chức Wikileaks đưa lên internet vụ công ty
Securency International hối lộ cho các quốc gia
-trong đó có Việt Nam- để được hợp đồng in tiền
Polymer. Theo đó, “ngày 19/6/2014, ông
Hollingworth, Thấm
Phán
Tối
Cao
Pháp
Viện
tiểu bang
Victoria,
Australia,
căn cứ theo thủ tục pháp lư khi phổ biến một
văn kiện đối với 14 vị cựu lănh đạo và đương kim
lănh đạo trong chánh phủ Malaysia, Indonesia, và
Việt Nam”.
Xin trích hai điều
liên quan:
“2.
Chiếu theo ḷênh sau, khoản 1 áp dụng đối
với những cá nhân
sau đây:
Bảy vị lănh đạo trong chánh phủ Malaysia.
Ba vị lănh đạo trong chánh phủ Indonesia.
Bốn vị lănh đạo của nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam. Tất cả đều ghi tên từng vị
cùng với chức vụ theo từng thời gian,
nhưng trong điều 2 này, tôi trích riêng các vị
lănh đạo Việt Cộng, là:
- Ông
Trương Tấn Sang
, Chủ
Tịch
Nước hiện nay của Việt Nam (từ năm 2011).
-
Ông
Nguyễn Tấn Dũng,
Thủ
Tướng
hiện nay của Việt Nam (từ năm 2006).
- Ông
Lê Đức Thúy, cựu
Chủ
Tịch
Ủy
Ban
Giám
Sát
Tài
Chánh
Quốc gia (2007-2011),
trước
đó là
Thống Đốc Ngân
Hàng
Nhà
Nước
Việt Nam (1999-2007).
-
Và ông
Nông Đức Mạnh,
nguyên Tổng Bí
Thư
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001- 2011)”.
“5.
Mục
đích của
lệnh
ṭa là để ngăn chận thiệt
hại
cho bang giao quốc
tế
của
Úc, có thể
bị
gây ra bởi
việc
công bố
các tài liệu
có thể
làm hại
tiếng
tăm của
cá nhân được đề cập,
mà không phải
là đối tượng của
cáo buôc trong các thủ
tục
tố
tụng”.....
Các Anh hăy đọc lại lần nữa để nhận ra “lệnh cấm
phổ biến...” của Tối Cao Pháp Viện Victoria.
Điều đó được hiểu là 4 ông lănh đạo Việt Cộng có
liên quan đến vụ nhận hối lộ của công ty
Securency International để kư hợp đồng giao cho
công ty này in tiền
Polymer cho Việt Nam. Theo lời lẽ trong văn kiện
của ông Thấm Phán Hollingworth, trong một mức độ
nào đó, tôi tin là cả 14 vị của 3 quốc gia
đều có liên quan đến những vụ án hối lộ in
tiền Polymer tại Australia. Nhưng v́ thể diện
trong bang giao quốc tế, nên ông ra lệnh ngăn
cấm phổ biến tin tức này. Vô t́nh, chính cái văn
kiện ngăn cấm ấy lại phơi bày cái xấu xa của
những người lănh đạo đáng khinh bỉ đó
được loan đi khắp thế giới. Nếu không liên quan,
ắt hẳn các vị lănh đạo có tên trong văn kiện đó,
c̣n chờ ǵ nữa mà không kiện Tối Cao Pháp Viện
Victoria đ̣i 1 đồng bạc danh dự.
Ngày 7/8/2014,
Bộ Ngoại Giao Việt Nam mời ông Đại Sứ Australia
tại Hà Nội đến để trao Công Hàm với nội dung: “Việt
Nam cực lực phản đối việc ṭa án tối cao
Victoria của Australia ban hành lệnh kiểm duyệt,
liên quan đến vụ in tiền polymer có nêu tên một
số quan chức cấp cao nước ngoài trong đó có Việt
Nam. Việc làm này xúc phạm danh dự cá nhân lănh
đạo Việt Nam cũng như h́nh ảnh đất nước Việt
Nam, và yêu cầu Australia giải thích lệnh kiểm
duyệt này và công khai khách quan vụ án để
mọi người hiểu đúng sự thật”.
Không biết Các Anh nghĩ sao, chớ tôi th́ thấy lạ
quá! “Bản chất độc tài, dối trá” lại đ̣i hiểu
đúng sự thật! Mà cần ǵ t́m đâu xa, chỉ cần đọc
phần thứ ba
trong thư này là có ngay sự thật mà...
Đại Sứ Australia đă ghi nhận ư kiến của Bộ Ngoại
Giao Việt Nam, và cho biết chánh phủ Australia
sẽ xem xét việc này. Và ngày 23/8/2014,
trên trang Web của ṭa đại sứ Australia, Đại sứ
Hugh Borrowman cho biết: “Đây là vụ án kéo
dài, phức tạp có đề cập tới danh tính của một số
lượng lớn các cá nhân. Việc lệnh cấm đề cập tới
tên các cá nhân không ám chỉ rằng họ có sai phạm.
Chính phủ Úc nhấn mạnh rằng các cá nhân được đề
cập tên không khẳng định việc nêu danh các
nhân vật này trong lệnh kiểm duyệt, không
có nghĩa họ làm điều gì sai hay họ là
đối tượng điều tra trong vụ Securency”.
Vậy, tại sao có tên họ trong hồ sơ vụ án? Các
Anh có thấy lạ không?
Ông Julian Assange,
người điều
hành tổ chức
Wikileaks, chuyên thu thập
và phổ
biến những tin tức loại mật và tối mật, đă
gay gắt
và mỉa mai chánh phủ Australia, nhưng câu cuối
cùng của ông nói lên điều xấu xa của một số vị
lănh đạo Châu Á, trong đó có Việt Nam cộng
sản:
"Lệnh cấm này là lệnh tồi tệ
nhất từ trước đến nay. Với nó, chính phủ Úc đă
không chỉ bịt miệng báo chí Úc, mà c̣n bịt mắt
cả công chúng Úc. Đây không chỉ là vấn đề chính
phủ Úc thất bại trong việc đưa một vụ án tham
nhũng quốc tế ra trước công luận như nó xứng
đáng phải thế. Bà Bộ Trưởng Ngoại Giao Julie
Bishop phải giải thích, tại sao bà lại đe dọa
mỗi người dân Úc bằng bản án tù để che dấu một
vụ bê bối tham nhũng đáng xấu hổ có liên quan
đến chính phủ Úc."
"Khái niệm về "an ninh quốc gia" không phải để
làm tấm mền che đậy những cáo buộc tham nhũng
nghiêm trọng liên quan đến các quan chức chính
phủ, ở Úc hay ở đâu cũng thế. Đây là v́ lợi ích
chung của cộng đồng mà báo chí phải có quyền đưa
tin về vụ việc này, trong đó có liên quan đến
công ty con của ngân hàng Trung ương Úc. Ai là
người môi giới giao dịch này, và chúng ta đă môi
giới họ ở cấp quốc gia? Điều tra tham nhũng và
lệnh kiểm duyệt thông tin với lư do "an ninh
quốc gia" là hai thứ không thể đi đôi với nhau.
Thật là mỉa mai khi Tony Abbott đă đem những
điều tồi tệ nhất của Châu Á đến Châu Úc".
Thứ
hai.
Tiền
giấy polymer lưu hành trên lănh thổ Việt Nam.
Mời Các Anh vào trang <Google.vn> để biết qua
tiền giấy Polymer do công ty Securency
International in và chánh phủ Việt Nam phát hành
ra sao nhé!
Từ
năm
2003 đến
năm
2006,
Ngân Hàng Nhà Nước
lần lượt phát hành 6 loại tiền
Polymer,
và
từ
đó ngân
hàng
nhà
nước
chấm
dứt in
loại tiền giấy làm bằng cotton:
Ngày 17/12/2003,
phát hành
loại tiền mới
Polymer
với
20 triệu tờ loại
50.000 đồng,
và
loại
500.000
đồng
(lớn
nhất từ trước tới
nay).
Ngày
1/9/2004,
hành
tiền
giấy loại
100.000 đồng
in trên giấy
Polymer”.
Ngày
1/7/2006,
phát hành tiền mới
loại 20.000 đồng,
trong khi tiền
giấy loại 20.000 đồng in bằng cotton đang lưu
hành, vẫn có giá trị”.
Ngày 30/8/2006,
phát hành tiền
giấy loại 10.000
đồng
và 200.000 đồng.
Vậy
là
6 loại tiền
Polymer
đă phát hành, riêng các loại từ 5.000 đồng
trở xuống
th́ ngân
hàng
sẽ
phát hành bằng tiền xu.
Chính tiền Polymer in tại Australia, là nguồn
gốc của vụ hối lộ mà báo chí ngoại quốc loan tải.
Theo tác giả Nguyên Anh trong bài viết
ngày
1/8/2014,
nhận định:
Chuyện cựu
Thống
Đốc ngân hàng nhà nước
cộng sản Việt Nam là ông
Lê Đức Thúy,
đă nhận
hối lộ hằng chục triệu
mỹ kim của công ty in tiền Australia,
để duyệt
hợp đồng
in tiền
Polymer
cho Việt Nam,
với sự tiếp tay của Đại
Tá
an ninh Lương
Ngọc
Anh,
lâu nay
đă ch́m vào im lặng
một cách
đáng sợ”.
Thứ ba.
Nh́n lại vụ hối lộ in tiền Polymer.
Năm 2002,
công ty Securency International đă giành được
hợp đồng in tiền Polymer cho Ngân Hàng Nhà
Nước Việt Nam, bằng cách bắt mối với một công ty
Việt Nam tại Hà Nội, nơi có con của cựu Thống
Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam làm việc. Theo
báo The Age: “.. Securency dùng các
khoản hoa hồng lớn, trả cho đại diện giao dịch
của các quốc gia có hợp đồng in tiền Polymer,
dẫn đến những cáo buộc công ty này dùng tiền hối
lộ để giành hợp đồng”.
Các Anh đọc tiếp đoạn này mà tôi trích trong
Wikipedia về ông Lê Đức Thúy, như sau:
“Ngày 15/10/2006,
báo chí
Việt Nam
đăng tải
sự kiện bà Nguyễn Thị Việt Nhân, Đại Biểu Quốc
Hội tỉnh Kiên Giang,
chất vấn ông
Lê Đức Thúy 3 điểm: Thứ nhất. Vụ
hối lộ trong dịch vụ in tiền Polymer ở
Australia. Thứ hai. Vụ
hóa giá
nhà cho ông Thúy
theo
Nghị Định
61/CP
với giá 472 triệu đồng, trong khi giá thị trường
vào khoảng 10 tỷ đồng . Và thứ ba. Con
trai ông
Thúy là
Lê Đức Minh liên quan đến
vụ in tiền polymer”.
Trong tài liệu không có phần trả lời của ông
Thúy (có lẽ báo không được phép đăng), nhưng ít
ra cũng có bà đại biểu của cử tri đặt vấn đề
chánh thức tại diễn đàn Quốc Hội.
Bản tin của đài
BBC
“Cảnh
Sát
Úc t́m thấy chứng cứ và đang điều tra vụ hối lộ
10 triệu Úc kim liên quan đến ông Lê Đức Thúy
trong đợt in tiền
Polymer.
Như cách phân tích của
báo
The Age,
người đọc
có cảm tưởng từ Đại
Tá
Lương Ngọc Anh tới ông Lê Đức Thúy
và con trai của ông,
trong vụ
nhận
hối lộ in tiền cho Ngân Hàng Nhà Nước, cũng có
thể chỉ là những người trung gian đứng dàn xếp
đầu cầu dịch vụ in tiền. C̣n tiền hối lộ
là
12 triệu Úc kim,
hay
ít nhất cũng là
10 triệu
mỹ kim,
được
chuyển
thẳng vào một số trương mục bí mật
ở ngân hàng Thụy Sĩ, và cả
ngân hàng
một số nước không bị đánh thuế như Bahamas....”
(Từ bài của Bà đại biểu Quốc Hội Nguyễn Thị Việt
Nhân, ngày 15/10/2006)
Theo
báo The Age ngày 26/1/2011: “Công
ty in tiền Securency cũng đă trả hối lộ cho ông
Lê Đức
Thúy
bằng cách trả tiền học phí cho con ông tại một
đại học tại Anh.
(tài liệu từ ông Nick McKenzie và Richard Baker
ngày 24/1/2011).
Tôi nghĩ, nêu thật sự lănh đạo Các Anh
thanh liêm, trong sáng, không dính dáng đồng nào
trong vụ Công Ty Securency đưa hối lộ cho phía
Việt Nam, th́ căn cứ các tài liệu trên đây trong
Wikipedia mà đi kiện đài BBC và tờ báo The
Age được rồi. Một nét nh́n chung, nếu
trong sáng thanh liêm, th́ làm sao Thủ Tướng
Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng có tiền mua một cung
điện tại Dubai với giá 120.000.000,00 mỹ kim
(120 triệu MK) mà bản tin đài RFA ngày
14/4/2014 đă loan?
Đài BBC ngày 4/7/2009 có bản tin “Tiền
hối lộ quan chức Việt Nam được đưa vào tài khoản
ở Thụy Sĩ”. Theo đó, Công ty
Securency International (SI) trụ sở tại
Melbourne, có hợp đồng in tiền cho 26 quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Với tiết lộ mới nhất có
liên quan đến số tiền hối lộ trao tay cho khách
hàng Việt Nam từ công ty Securency của Úc.
Cảnh Sát liên bang Australia xác nhận với ngân
hàng trung ương nước này rằng, họ đang điều
tra cáo buộc công ty cung cấp vật liệu in tiền
polymer Securency của Úc “hối lộ” cho khách
hàng Việt Nam để giành hợp đồng in tiền”.
Trang VnExpress trên Google.vn ngày
10/3/2011, ông Nguyễn
Xuân Phúc,
đứng đầu văn pḥng chánh phủ, xác nhận: “Ông
Lê Đức Thúy,
Chủ
Tịch
Hội Đồng Giám
Sát
Tài
Chánh
Quốc
Gia,
bị cáo buộc có dính dáng tới tham nhũng trong vụ
in tiền
Polymer,
sẽ
về
hưu từ ngày 1/5/2011.
Ông giữ vị trí này từ tháng
3/2008,
và trước đó là Thống Đđốc Ngân
Hàng
Nhà
Nước
từ năm 1999 tới giữa năm 2007.
Ngày 4/7/2011, Cảnh Sát liên bang
Australia tiếp tục điều tra các ṭng phạm
trong vụ in tiền polymer cho Việt Nam, cho
biết: “Rạng sáng 1/7/2011, Cảnh Sát
đột kích vào nhiều ngôi nhà ở Melbourne (tiểu
bang Victoria), bắt giữ 6 cựu giám đốc cao
cấp của công ty Securency International và
công ty NPA, với tội danh hối lộ liên quan đến
các hợp đồng in tiền Polymer ở Việt Nam,
Malaysia và Indonesia. Đây là 2 công ty chuyên
in tiền Polymer cho hơn 30 quốc gia, cũng là
công ty con của Ngân Hàng Trung Ương
Australia, gọi tắt
là RBA.
(trong h́nh là ông Nitchell Anderson, cựu Giám
Đốc Tài Chánh công ty Securency International,
gọi tắt là SI).
Đây là hành động bắt giữ đầu tiên, trong cuộc
điếu tra quốc tế liên quan đến vụ hối lộ giành
hợp đồng in tiền Polymer kéo dài từ năm 1999 mà
Cảnh Sát tại Australia, Châu Á và Châu Âu, cùng
điều tra h́nh sự để truy t́m đường đi của 25
triệu mỹ kim mà Cảnh Sát quốc tế t́nh nghi 2
công ty con của ngân hàng quốc gia Australia (RBA)
đưa hối lộ cho khách hàng các nước Châu Á và
Châu Phi. Những người vừa bị Cảnh Sát Australia
bắt giữ, do bị cáo buộc tội đưa hối lộ cho 3
nước khách hàng là Việt Nam, Malaysia, và
Indonesia từ năm 1999 đến năm 2005, gồm: (1)
Ông Myles Curtis, 55 tuổi, cựu CEO SI, bị
cáo buộc 3 tội hối lộ cho khách hàng Việt Nam và
Malaysia. (2) Ông John Leckenby, 66 tuổi,
cựu CEO NPA, bị cáo buộc 2 tội đưa hối lộ cho
khách hàng Indonesia và Malaysia. (3) Ông
Mitchell John Anderson, 50 tuổi, bị cáo buộc
2 tội (4) Ông Peter Sinclair Hutchinson,
61 tuổi. (5) Ông Barry Thosmas Brady,
62 tuổi. (6) Ông Rognvald Leslie Marchant,
64 tuổi. Ba vị sau cùng bị cáo buộc mỗi người 1
tội. Mỗi tội danh, có thể bị phạt tối đa là 10
năm tù, và bị phạt đến 1 triệu mỹ kim.
Theo bản tin AFP ngày 10/8/2011, ông
Clifford John Gerathy,
60 tuổi là người Úc thứ
7
bị truy tố trong vụ án công ty Securency
đưa hối lộ 17,8 triệu
EURO
cho một quan chức Việt Nam.
Phiên ṭa đầu tiên tại Melbourne.
Ngày 14/8/2012,
các nghi can đă ra ṭa tại Melbourne (Australia)
để nghe phía công tố cáo buộc hai công ty trực
thuộc Ngân
Hàng
trung
ương Úc, trả hàng
chục
triệu
mỹ kim
cho người môi giới ở Việt Nam, Indonesia,
và Malaysia để giành hợp đồng in tiền polymer.
Xin trích riêng phần cáo buộc liên quan đến Việt
Cộng:
Công tố viên Nicholas Robinson:
“Cựu
giám đốc Securency, ông
Myles Curtis
là
vai chính trong
vụ đưa
hối lộ
cho
giới chức ngân hàng ở ba nước Đông Nam Á.
Bà
Elizabeth Masamune,
đại diện của cơ quan xúc tiến thương mại Úc
(gọi
tắt tiếng Anh là
Austrade) ở Hà Nội, liên lạc với ông Curtis
vào năm 2000 để giới thiệu người môi giới
V iệt Nam là
Lương Ngọc Anh”.
Nội dung một e-mail của Bà Elizabeth đọc tại ṭa
rằng: “Ông
Anh đă tiếp xúc với một viên chức ngân hàng Việt
Nam, người muốn hợp tác với Úc trong vụ in tiền”.
“Securency
đồng ư trả tiền du học cho con trai của
Thống Đốc Ngân
Hàng
nhà
nước
là
ông Lê Đức Thúy.
Trong một số vụ, tiền hối lộ được che giấu qua
các hóa đơn cho người phiên dịch, tiền đi lại,
và quảng cáo.
Người môi giới
(Đại Tá Lương Ngọc Anh)
được hứa trả tiền dựa trên căn bản và sự hiểu
biết rằng từ số tiền này, ông ta sẽ hối
lộ quan chức ngân hàng để có hợp đồng.
Trong
5 năm, hai công ty đă giành được nhiều hợp đồng
từ Ngân
Hàng
nhà
nước Việt Nam sau khi trả hơn 15 triệu Úc
kim
vào các tài khoản
của ông Lương Ngọc Anh
ở nhiều nước”.
“Trong
một email đọc
tại ṭa, th́
ông
Lương Ngọc
Anh
yêu cầu tăng tiền thù lao, ông
Clifford
Gerathy
trả lời:
“Chúng tôi sẽ tăng tiền thù lao lên 10% khi
Ngân
Hàng
nhà
nước Việt Nam trao
thêm
hợp đồng cho Securency,
thay v́ buộc
chúng tôi phải
tham gia đấu thầu”.
Báo The Age, tờ báo phát hiện trước nhất về vụ
án hối lộ để giành hợp đồng in tiền Polymer,
tường thuật rằng:
“Bộ
Ngoại
Giao
và Thương
Mại
Úc yêu cầu phiên xử kín với lư do sợ tiết
lộ thông tin gây hại cho quan hệ ngoại giao của
Úc”.
Nhưng luật sư
Veronica Scott
của
báo
The Age đă thuyết phục được ṭa,
rằng:
“Vụ
án vô cùng quan trọng v́ lợi ích công chúng.
Việc gây xấu hổ hay nhạy cảm cho chính phủ,
không phải là lư do để xử kín.”
Sau phiên ṭa nói trên, báo VN Chronicle
online ngày 15/8/2012, đăng lại từ
báo Sydney Morning Herald (SMH). Theo
đó, “Công
Tố
Viên
Robinson
cáo buộc Lương Ngọc Anh, Đại
Tá
t́nh báo
Công
An
là người nhận tiền hối lộ cho cấp
lănh đạo
Ngân Hàng Nhà Nước
Việt Nam
trong dịch vụ công ty
Securency
in tiền giấy nhựa cho Việt Nam.
Lương Ngọc Anh, đang
là
Tổng
Giám
Đốc
công ty Phát Triển Công Nghệ (CFTD)
tại Hà Nội.
Đương kim Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, thời
đó là
Phó
Thủ
Tướng
thường trực,
Chủ
Tịch
Hội Đồng Tài Chính
Tiền Tệ của chính phủ,
và tháng 5/1998 Quốc Hội cử Nguyễn Tấn Dũng kiêm
chức
Thống
Đốc Ngân Hàng Nhà Nước.
Đến tháng 12/1999, bàn giao cho ông Lê Đức Thúy.
Vụ Đại Tá
Lương Ngọc Anh làm trung gian
nhận
tiền hối lộ của Securency và NPA,
diễn ra trong cả 2 thời
Thống
Đốc Ngân Hàng Nhà Nước
Việt Nam
là Nguyễn Tấn Dũng và Lê Đức Thúy. Số tiền “hoa
hồng” từng được đề cập đến là $20 triệu Úc kim”.
Phán ứng tại các quốc gia liên quan.
Tại Malaysia.
Ủy Ban Chống Tham Nhũng (ACC), buộc tội ông
Mahamad Daud Dol Moin, cựu Phó Thống Đốc
Ngân Hàng Trung Ương, đă nhận 100.000 ringgit
(33.000USD) tiền hối lộ từ công ty Securency
InternationalSI vào khoảng cuối năm 2004 và đầu
năm 2005. Người trung gian là doanh nhân
Abdul Kayum Syed Ahmad, để giúp NPA kư được
hợp đồng in tiền Polymer trị giá 30 triệu mỹ kim.
Nếu bị kết tội, mỗi người có thể bị ngồi tù đến
20 năm. Ngày 8/10/2010, Ủy Ban Chống
Tham Nhũng của Malaysia (MACC) cho biết: “Đă
bắt giữ 3 người liên quan tới vụ hối lộ chung
quanh hợp đồng in tiền polymer tại Australia.
Việc Malaysia bắt giữ 3 người nói trên chỉ được
công bố, sau khi 2 người đàn ông khác bị bắt giữ
tại Anh quốc hai ngày trước đó (6/12/2010)”.
Tại Indonesia.
Công ty Securency International và Công ty NPA
kư được một hợp đồng vào năm 1999, để in 500
triệu tờ loại 100.000 rupiah bằng nguyên liệu
Polymer. Người trung gian là doanh nhân Radius
Christanto, được trả khoảng 4.900.000,00 mỹ kim.
Giám Đốc Tiền Tệ của Ngân Hàng Trung Ương
Indonesia là ông Herman Joseph Susmanto,
bị cho là có liên quan trực tiếp đến vụ nhận hối
lộ này.
Tại Việt Nam.
Sau các thông tin phát đi từ Australia, Việt Nam
đưa vào danh sách các vụ tham nhũng nghiêm trọng
và phức tạp mà Ban Chỉ Đạo trung ương về pḥng
chống tham nhũng tập trung chỉ đạo, theo dơi,
đôn đốc. Trong báo cáo công tác pḥng chống tham
nhũng mà chánh phủ gởi Quốc Hội hồi tháng
10/2011, theo đó th́ “Bộ Công An
đă có báo cáo kết quả xác minh bước đầu chưa
phát hiện có tham nhũng, trong việc điều tra
nghi án công ty Securency đưa hối lộ cho công ty
CFTD (Việt Nam) trong vụ in tiền
Polymer”.
Theo VnExpress, tiếp xúc với Phó Tổng
Thanh Tra chánh phủ là ông Trần Đức Lượng
hồi giữa tháng 8/2009, được ông trả lời rằng: “Mới
phát hiện dấu hiệu chưa thực sự minh bạch trong
vụ này, nên chưa thể kết luận phía Việt Nam có
vi phạm hay không”.
Với cáo buộc từ tối cao pháp viện Victoria
(Australia), Malaysia điều tra và bắt giữ các
viên chức liên quan, trong khi Indonesia điều
tra và xác nhận vụ nhận hối lộ, c̣n Việt Nam th́
Bộ Công An nói chưa phát hiện tham nhũng. Các
Anh nghĩ sao th́ tôi chưa biết, nhưng với tôi
th́ không có ǵ ngạc nhiên với bản báo cáo của
Bộ Công An mà chánh phủ gởi cho Quốc Hội. V́ các
cấp lănh đạo cùng trong hệ thống tham nhũng, th́
sự che chắn cho nhau là chuyện b́nh
thường trong xă hội chủ nghĩa. V́ vậy mà sự kiện
lănh đạo Việt Cộng nhận hối lộ của công ty
Securency in tiền Polymer, cũng là chuyện b́nh
thường dưới cách nh́n của người cộng sản. Nhưng
với những người có ư thức về một xă hội dân chủ
tự do th́ không thể chấp nhận điều b́nh
thường
đó, cho dù đang sống trong ḷng xă hội Việt Nam.
Tôi muốn nói đến những tổ chức xă hội dân sự lẫn
những cá nhân trong nước, xác định được ư thức
dân chủ tự do khi sử dụng hệ thống internet với
vô số tin tức trên thế giới, và bên cạnh đó là
điện thoại cầm tay giúp truyền đạt tin tức và
h́nh ảnh thật nhanh. Lá thư mà Các Anh đang đọc
đây, là một trong vô số tin tức đó.
Kết
luận.
Với
những tài liệu từ Tối Cao Pháp Viện Australia,
Cảnh Sát Australia, từ những nghi can bị bắt tại
Australia và Malysia, bị thẩm vấn tại Anh quốc
và Indonesia, đă là bằng chứng ít nhất cũng là
đối với ông Lê Đức Thúy và Đại Tá an ninh Lương
Ngọc Anh. Rồi từ hai ông nhận hối lộ này nối đến
các ông Nông Đức Mạnh, Trương Tấn Sang, và
Nguyễn Tấn Dũng. Nếu không, th́ tại sao
văn kiện của Tối Cao Pháp Viện tiểu bang
Victoria (Australia) có tên của các ông ấy. Đó
là văn kiện của cơ quan tối cao ngành Tư Pháp
trong một vụ án hối lộ quốc tế, chớ đâu phải
một văn kiện hành chánh thông thường.
Nhân vụ hối lộ in tiền Polymer này, tôi có vài
con số dưới đây giúp Các Anh có nét nh́n về
những vị lănh đạo Việt Cộng liên quan, c̣n suy
nghĩ thế nào là tùy Các Anh.
Với tài liệu của Poliburos Network ngày
19/12/2000 kèm danh sách khoảng 300 đảng
viên giữ các chức vụ lănh đạo trong hệ thống
đảng với nhà nước Việt Nam, là chủ nhân của
những số tiền lớn gởi tại các ngân hàng
ngoại quốc, cộng với những bất động sản tại Việt
Nam. Tôi trích riêng 3 vị lănh đạo Việt Cộng với
các chức vụ lúc ấy có liên quan đến vụ hối lộ in
tiền Polymer:
Ông Trương Tấn Sang,
Chủ Tịch Ủy Ban Kinh Tế trung ương đảng cộng sản
Việt Nam, số tiền 1.124.000.000,00 mỹ kim
(1 tỷ 124 triệu MK).
Ông Nguyễn Tấn Dũng,
đệ nhất Phó Thủ Tướng, số tiền
1.480.000.000,00 mỹ kim (1 tỉ 480 triệu MK).
Ông Nông Đức Mạnh,
Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam, số tiền
1.300.000.000,00 mỹ kim (1 tỷ 300 triệu MK)
Ngày nay, với hệ thống internet thông dụng trên
thế giới, Các Anh có nhiều cơ hội t́m đọc những
tin tức mà Các Anh cần -trong đó có loạt Thư này-
Từ đó, Các Anh hăy phân tách và suy nghĩ để chọn
cho ḿnh một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào
ḥa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được
ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự,
được hănh diện trước những người ngoại quốc đến
Việt Nam, t́m hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với
chiều dài lịch sử ngàn năm trước đă lừng danh
thế giới.
Tôi xin nhắc để Các Anh nhớ rằng: “Trên thế
giới, chưa bao giờ người dân của các quốc gia
Dân Chủ Tự Do chạy sang các nước do cộng sản cầm
quyền để xin tị nạn chính trị, chỉ có người dân
trong các quốc gia bị cộng sản cai trị ào ạt
chạy sang các quốc gia Dân Chủ Tự Do xin tị nạn
chính trị. Riêng Việt Nam từ tháng 4/1975
đến cuối năm 1995, theo tài liệu của Liên Hiệp
Quốc phổ biến năm 2000, đă có 839.200 người
thoát khỏi Việt Nam đến tị nạn tại 91 quốc
gia, cũng trong thời gian đó Liên Hiệp Quốc
ước lượng có từ 400.000 đến 500.000 người
chết mất xác trên biển và trong rừng sâu,
trên đường vượt biên vượt biển t́m tự do!”
Với sự kiện đó, với những con số đó, Các Anh
nghĩ ǵ?
Các Anh hăy nhớ lời nói của Đức Đạt Lại Lạt
Ma, nhà lănh đạo tinh thần của Tây Tạng:
“Cộng sản là loài cỏ dại, mọc trên hoàng tàn
của chiến tranh, là loài trùng độc,
sinh sôi nẫy nở trên rác rưởi của cuộc đời”.
Và cũng đừng
bao giờ quên rằng: “Tự do, không phải là
điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng
của đất nước. Không có dân chủ, không thể có sự
trỗi dậy và phát triển bền vững. Và chính
chúng ta phải tranh đấu, v́ Dân Chủ Tự Do không
phải là quà tặng.
Texas, tháng 9 năm 2014
****35****
.