******
Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam
Cộng Ḥa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa gây ra. Trong
bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc
gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ
“xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lănh đạo cộng
sản Việt Nam với ḷng thù hận đă đày đọa chúng
tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là
trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm,
riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và
Quân Lực mà tôi phục vụ không c̣n nữa, nhưng
linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn
nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và
sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê
hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt
Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn
gọn là “Các Anh” để tiện tŕnh bày. Chữ “Các Anh”
viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người
lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lănh đạo cấp
Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu,
và Bộ Quốc Pḥng. Là Người Lính trong quân đội
“Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo
vệ Tổ Quốc Nhân Dân, v́ Tổ Quốc với Nhân Dân
là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất
cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của
lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được
đặt trên căn bản đó.
Nội dung thư này, tôi cùng Các Anh t́m hiểu
về Viện Khổng Tử mới khánh thành tại Hà Nội, và
t́m hiểu v́ sao mà Trung Cộng yêu cầu sử dụng
tiền của họ (nhân dân tê) trong giao dịch qua
lại giữa Việt Nam với họ.

Thứ
nhất.
Viện Khổng
Tử
của Trung Cộng
(Trích trong Wikipedia) Viện
Khổng Tử
hay
Khổng Tử học viện,
là hệ thống học viện được
chánh phủ Trung Cộng
thành lập
tại các quốc gia trong
mục đích
truyền bá tư tưởng và văn hóa
trên toàn thế giới.
Tính đến
8/10/2011,
các trường Đại
Học
Dân Tộc, Đại Học Sư Phạm, và Đại Học Quảng Tây
của tỉnh
Quảng Tây,
đă thành lập 6 Học
Viện
Khổng Tử tại
Thái Lan, Lào, và Indonesia (Nam Dương).
.
Mục tiêu của lănh đạo Trung Cộng là từ nay đến
năm 2020, phải thiết lập Viện Khổng Tử tại 500
thành phố lớn trên thế giới.
Các quốc gia hủy bỏ Viện Khổng Tử
(trích trong Google.vn).
Thụy Điển.
Viện Khổng Tử thành lập tại trường đại học
Stockholm, Thụy Điển, hồi năm 2005. Ông
Lư Trường Xuân (Li Changchun),
cựu
Bộ
Trưởng
Bộ Tuyên Truyền của Trung Quốc,
ca ngợi
là một phần quan trọng của
hệ thống
tuyên truyền ở hải ngoại của Trung Quốc, đă bị
phát hiện có liên quan đến hoạt động gián điệp
kinh tế tràn lan của người Trung Quốc ở hải
ngoại. Có một thông tin được công khai nói rơ
rằng những cơ quan chống t́nh báo Tây phương đă
xác định,
Viện Khổng Tử là những cơ quan gián điệp thuộc
sử dụng và điều hành của chánh phủ Trung Quốc.
Cuối cùng, theo quyết định của trường đại học
Stockholm ngày 20/12/2014, sẽ bỏ chương tŕnh
tiếng Trung Hoa từ tháng 6/2015.
Hoa Kỳ.
Sau khi giáo sư ngành nhân chủng học Marshall
Sahlins thuộc đại học Chicago công bố một điều
tra về t́nh trạng hoạt động của các Viện Khổng
Tử tại giảng đường Mỹ vào tháng 10/2013,
hơn 100 giảng viên của đại học này đă kư tên vào
văn bản chánh thức phản đối sự hiện diện của
Viện
KHổng Tử
trong khuôn viên đại học Chicago.
“Đầu
tháng 11/2014,
hai trường đại
học
Chicago và đại học Pennsylvania,
tuyên bố ngưng hợp tác và đóng cửa Viện Khổng
Tử, cơ quan giảng dạy ngôn ngữ và văn hóa Trung
Quốc”.
Trả lời phỏng vấn tờ The Wall Street Journal,
ông Henry Reichman,
Phó
Chủ
Tịch
Hiệp
Hội
Giáo
Sư
đại học Mỹ, cho biết: “Tôi tin rằng,
Chicago và Pennsylvania không phải là hai đại
học duy nhất nhận ra rằng,
hợp tác với một viện như kiểu Viện Khổng Tử là
hoàn toàn không đáng”.
Vừa qua, Hiệp Hội các Giáo Sư đại học Hoa Kỳ đă
kêu gọi khoảng 100 trường đại học xem xét lại
mối quan hệ của họ với các tiền đồn văn hóa tiêu
biểu này của Bắc Kinh. Hiệp hội viết: “Thỉnh
thoảng ban giám hiệu đă tham gia vào các mối
quan hệ đối tác khiến họ phải hi sinh tính liêm
chính của ḿnh. Các Viện Khổng Tử vận hành như
một cánh tay của nhà nước Trung Quốc và được cho
phép tảng lờ quyền tự do học thuật. Thêm nữa,
các quan chức Trung Quốc đă nói rằng, các
Viện Khổng Từ là ch́a khóa giúp mở rộng quyền
lực mềm, tạo thành một bộ phận quan trọng
của bộ máy tuyên truyền ở hải ngoại của Trung
Quốc.”
Ngay tại
Trung
Cộng.
Một giáo sư kinh tế học và
là
nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng của Trung
Cộng,
ông Hạ Nghiệp Lương, người bị sa thải
khỏi đại học Bắc Kinh năm
2013,
cảnh báo rằng:
“Nhiều
trao đổi học thuật của Trung Quốc chứa đựng các
rủi ro bị che
giấu,
chẳng hạn các học giả thỉnh giảng lại có thể
là các nhân viên t́nh báo được cử đi”.
Ấn Độ.
Chính phủ Ấn Độ đă từ chối, không cho lập những
Viện
Khổng
Tử,
cho đó là âm mưu của Trung
Cộng
để phát triển quyền lực mềm,
dùng văn hóa để lan tràn ảnh hưởng.
Canada.
Năm
2007, một báo cáo giải mật của cơ quan T́nh Báo
cảnh báo: “Viện Khổng Tử như một nỗ lực của
”.Đại
học McMaster và Đại học Sherbrooke đă chấm dứt
hợp tác với Viện Khổng Tử. Trước đó,
tháng 12/2013,
Hiệp
Hội
Giảng
Viên
Đại
Học
Canada,
đă
phổ biến
bản kêu gọi các trường đại học Canada hủy bỏ
các hợp đồng hợp tác với Viện Khổng Tử.
(hết trích)
Trong một chừng mực nào đó, Các Anh đă nhận ra
nguyên nhân tại sao một số quốc gia khước từ
Viện Khổng Tử. Tuy vậy, tôi vẫn trích ra những
nghi ngờ đằng sau của Viện Khổng Tử mà Trung
Cộng cố gắng thành lập tại các quốc gia”.
Hoa Kỳ:
“Viện
Khổng Từ là ch́a khóa giúp mở rộng quyền lực mềm,
tạo thành một bộ phận quan trọng của bộ máy
tuyên truyền ở hải ngoại của Trung Quốc.”
Thụy Điển: “Học
viện này sẽ bị lợi dụng làm nơi tuyên truyền cho
đảng
cộng
sản Trung Quốc”.
Ngay tại
Trung
Cộng:
“Nhiều
trao đổi học thuật của Trung Quốc chứa đựng các
rủi ro bị che
giấu,
chẳng hạn các học giả thỉnh giảng lại có thể là
các nhân viên t́nh báo được cử đi”.
Ấn Độ:
“Đó
là âm mưu của Trung
Cộng
để phát triển quyền lực mềm, dùng văn hóa để lan
tràn ảnh hưởng”.
Canada.
“Viện
Khổng Tử như một nỗ lực của Trung Quốc trong
việc tạo ra tâm lư thân thiện với Trung Quốc và
mọi điều liên quan đến Trung Quốc”.
Thứ hai.
Viện Khổng Tử của Trung Cộng tại Việt Nam.
Tháng 4/2009,
lănh đạo Việt Cộng cho phép Trung Cộng thành lập
Viện Khổng Tử như một thí điểm, nhưng đă vấp
phải phản ứng của giới trí thức và dư luận xă
hội trước những hành động của Trung Cộng xâm lấn
Biển Đông, nên kéo dài đến nay mới thực hiện.

Ngày
5/12/2014,
qua đài BBC Luân Đôn, Giáo sư Trần Ngọc Thêm,
từ đại học quốc gia tại Sài G̣n, nhận định: “Để
đạt được những mục tiêu chiến lược của ḿnh,
Trung Quốc không ngần ngại kết hợp hai loại sức
mạnh
-sức mạnh cứng và sức mạnh mềm-
với mưu
đồ cho thấy khá rơ qua mạng lưới các Viện Khổng
Tử
mở ra tại
hàng trăm quốc gia...
“Kinh
nghiệm ở Mỹ
cho
rằng,
cái đó không bảo đảm tự do học thuật trong môi
trường đại học, ở phạm vi của các Viện Khổng
Tử
trong các trường đại học, rơ ràng đó là một hệ
thống rất thống nhất với nhau và có mục tiêu rất
rơ ràng...
Họ
sẽ không ngần ngại mà kết hợp cả sức mạnh cứng
là
quân sự,
và sức mạnh mềm là
áp đặt kinh tế hoặc mua chuộc về kinh tế, cộng
với sức mạnh mềm qua
ngỏ
ngoại giao
là
văn hóa
ngang qua
những Học
Viện
Khổng
Tử”.
(trích trong Google.vn) Ngày 27/12/2014,
Ông Nguyễn Thiện Nhân, Chủ Tịch Mặt Trận
Tổ Quốc Việt Nam, cùng với ông Du Chí Thanh,
Chủ Tịch Ủy Ban toàn quốc hội nghị hiệp thương
chính trị (gọi tắt là chính hiệp) của Trung Cộng,
dự lễ gắn biển "Học Viện Khổng Tử" tại trường
đại học Hà Nội. Trong số 11 ngoại ngữ đang giảng
dạy tại trường đại học Hà Nội, tiếng Trung Hoa
được nghiên cứu và giảng dạy từ những ngày đầu
thành lập vào năm 1959. Các thế hệ sinh viên tốt
nghiệp khoa ngoại ngữ Trung Hoa, đă và đang đảm
nhiệm nhiều vị trí quan trọng trong các cơ quan,
tổ chức, doanh nghiệp lớn của Việt Nam và Trung
Quốc tại Việt Nam.
Giáo sư Liang Hong, Hiệu Trưởng trường
đại học Sư Phạm Quảng Tây cho biết: “Ngay từ
năm 1955, chánh phủ Trung Quốc đă mở trường
chuyên tu Ngữ văn Trung Quốc tại cơ sở Vương
Thành của đại học Sư phạm Quảng Tây với mục
đích chánh là đào tạo học sinh Việt Nam. Đă
có hơn 1.000 thanh thiếu niên Việt Nam hoàn
thành khoá học tại đây”.
Trong chuyến thăm Việt Nam
từ ngày
25 tới 27/12/2014,
ông
Du Chí Thanh
đă có các cuộc làm việc với các lănh đạo hàng
đầu của Việt Nam,
là
Tổng
Bí
Thư
Nguyễn Phú Trọng, Chủ
Tịch
nước
Trương Tấn Sang, Thủ
Tướng
Nguyễn Tấn Dũng, thường trực Bộ Chính
Trị
Lê Hồng Anh,
và Chủ
Tịch
mặt
trận
tổ
quốc
Nguyễn Thiện Nhân.
Cùng ngày 27/12/2014,
trên làn sóng đài
BBC, Phó Giáo
Sư
Tiến
Sĩ
Hoàng Ngọc Giao,
Viện
Trưởng
Viện Chính
Sách
Pháp
Luật
và Phát
Triển
thuộc Vusta,
lập lại đoạn cuối trong phần trả lời cuộc phỏng
vấn của Tân Hoa Xă Trung Cộng, ông Du Chí
Thanh nói rằng:
“....
Chuyến thăm này của tôi tại Việt Nam,
là nhằm củng cố niềm tin, xây dựng sự nhất
trí và thúc đẩy mối quan hệ Việt - Trung đi đúng
hướng".
Ngày 2/1/2015,
trong
một bài phân tích trên báo The Diplomat
online,
chuyên gia
Carl
Thayer
(Australia)
đă tiết lộ nhiều chi tiết về hành động gây
sức ép mới nhất của Trung
Cộng lên
nhà cầm quyền
Việt Nam,
nhân chuyến công du Việt Nam của ông Du Chính
Thanh.
Khi họp với các nhà lănh đạo Việt Nam,
ông
Thanh
cũng có những tuyên bố ḥa dịu, nội dung kêu gọi
Việt Nam chú ư đến
“đại
cục”
mà
ông đánh giá là
rất
tốt đẹp trong
bang giao
Việt-Trung.
Vẫn theo
Giáo
Sư
Carl Thayer, một số nguồn tin từ các quan
chức và giới báo chí Việt Nam đă tiết lộ rằng,
ngay từ trước lúc ông Du Chính Thanh đặt chân
xuống Hà Nội,
Trung
Quốc đă gây áp lực đ̣i Việt Nam phải tuân
thủ ba điểm:
(1)
Đ́nh chỉ chiến dịch tuyên truyền chống Trung
Quốc.
(2) Không
quốc tế hóa tranh chấp biển đảo.
(3) Và
tiến hành đàm phán về vấn đề tranh chấp trên cơ
sở hoàn toàn song phương”.
Trong khi đó, tờ
Thời
Báo
Hoàn Cầu ngày 5/1/2015,
dẫn
lời b́nh luận của
thông tấn xă
Trung Cộng
về phát biểu của ông Du Chính Thanh
tại Việt Nam,
rằng:
“Phải
thúc đẩy quan hệ Việt - Trung phát triển đúng
hướng.
Ông
Du Chính Thanh không chỉ nhắc lại
phương châm
16 chữ
vàng
và tinh thần 4 tốt, c̣n nhấn mạnh
là
Việt Nam
với
Trung Quốc cần tăng cường tin cậy, tăng cường
nhận thức chung, tăng cường chỉ đạo định hướng
dư luận,
và
thỏa thuận xử lư vấn đề trên biển
rất phức tạp và nhạy cảm mà hai bên hăy toàn lực
để tránh vần đè này”.
Vậy, phương châm 16 chữ vàng xuất xứ từ Trung
Cộng trước hay sau hội nghị Thành Đô? Tôi vào
trang Google.vn t́m thấy như sau: Tháng
2/1999,
khi hội đàm với Tỏng Bí Thư của Việt Cộng Lê Khả
Phiêu,
ông
Tổng Bí Thư của Trung Cộng là Giang Trạch
Dân,
đề ra
phương
châm 16 chữ vàng,
là
"ổn
định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng
hữu nghị, hợp tác toàn diện”,
xác
định tư tưởng chỉ đạo
và khung tổng thể phát triển
mới giữa
hai nước
trong thế
kỷ mới,
và
ông Lê Khả Phiêu,
Tổng
Bí
Thư
của Việt Nam
đồng ư đưa
vào nội dung bản
Tuyên
Bố
Chung.
Tháng 11/2000,
khi ông
Nông Đức Mạnh,
Tổng Bí
Thư
mới
của
Việt
Cộng sang
thăm, ông
Giang Trạch Dân lập lại “16
chữ
vàng
là phương châm quan trọng chỉ đạo sự phát triển
quan hệ hai nước”.
Ngày
19/7/2005,
khi
hội kiến với ông
Ôn Gia Bảo,
Thủ
Tướng
Quốc Vụ
Viện
Trung
Cộng,
Chủ
Tịch
nước
Việt Nam
Trần Đức Lương khẳng định
rằng: “Nhà
nước và nhân dân Việt Nam,
rất coi trọng mối quan hệ truyền thống với Trung
Quốc và sẽ làm hết sức ḿnh để thực hiện
phương châm 16 chữ và quan hệ 4 tốt”.
(hết trích)
Các Anh nhận rơ thời gian và xuất xứ của
phương châm 16 chữ
vàng rồi chớ? Và Các Anh cũng nhận rơ là các ông
Lê Khả Phiêu,
Nông Đức Mạnh,
và Trần Đức Lương,
đă ôm ấp
phương châm
đó như thế nào chớ? Chính xác, 16 chữ vàng là do
Trung Cộng đưa ra sau hội nghị Thành Đô năm
1990, với nội dung là Trung Cộng chỉ đạo và
Việt Cộng thi hành. Vậy là, lănh đạo Trung
Cộng giăng ra cái bẫy, và lănh đạo Việt Cộng vui
vẽ chui vào đó để được Trung Cộng gọi là đúng
hướng. V́ vậy mà mỗi khi họ thấy sai hướng,
th́ họ sang dạy cho Việt Cộng bài học đúng hướng
theo hội nghị Thành Đô.
Và lần này, liệu ông Du Chí Thanh có hướng lănh
đạo Việt Cộng thực hiện bước nữa trên
“hành tŕnh” tiến đến năm 2020 như nội dung Biên
Bản Thành Đô chăng? Bước nữa, có nghĩa là Việt
Cộng hăy sử dụng “nhân dân tệ” trong giao dịch
toàn quốc, tiếp theo là mở rộng trong toàn dân
chăng? v́ chỉ cần hơn 6.23 nhân dân tệ đổi dược
1 mỹ kim, trong khi 21.380 đồng bạc Việt mới mua
được 1 mỹ kim (tỷ giá ngày 21/1/2015)
Thứ ba. Vấn đề giao dịch bằng tiền Trung Cộng.
(trích trong Google). Tính đến tháng 5/2014,
“nhân dân tệ” trở thành đồng tiền thương mại vào
hàng thứ 7 trên thế giới. Theo Hiệp Hội Viễn
Thông Tài Chánh & Ngân Hàng toàn cầu (SWIFT),
con đường quốc tế hóa nhân dân tệ có thể được
chia thành ba giai đoạn: Giao dịch, đầu tư, và
làm tiền dự trữ như ngoại hối trong tương lai.
Nhân dân tệ đầu tiên ra khỏi lănh thổ Trung Cộng,
được xem là bắt nguồn từ các giao dịch tại Hong
Kong vào năm 2003. Sau đó, Trung Cộng mở thêm
các chi nhánh ngân hàng hối đoái tại Đài Loan,
Macau, Singapore... Đến tháng 11/2014, có 11 chi
nhánh tại ngoại quốc, trong đó có 2 chi nhánh
tại Pháp và Đức. (hết
trích)
Ngày 5/1/2015,
“Hiệp hội doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt
Nam và Ngân Hàng Công Thương Trung Quốc (ICBC),
vừa gửi đề nghị đến Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam
đ̣i được thanh toán nhân dân tệ trực tiếp tại
Việt Nam”. Pḥng Thương Mại Công Nghiệp Việt
Nam đă chuyển đến Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Theo đó, phía Trung Cộng viện lư lẽ rằng:
“Việc giao dịch và thanh toán bằng “nhân dân tệ”
trực tiếp tại Việt Nam xuất phát từ nhu cầu khá
lớn và tăng lên rơ rệt theo đà phát triển không
ngừng của thương mại Việt - Trung”. Hiệp
Hội doanh nghiệp tại Việt Nam và Ngân Hàng Công
Thương Trung Cộng lập luận rằng: “Đến cuối
năm 2013, ước tính kim ngạch thanh toán bằng
“nhân dân tệ” đă đạt khoảng 15 tỷ USD. Tuy nhiên,
đa số giao dịch thanh toán biên mậu bằng nhân
dân tệ nói trên được thực hiện ở Việt Nam thông
qua con đường không chính ngạch”.
Theo Tiến Sĩ. Phan Minh Ngọc:
“Ngân Hàng Nhà Nước đă có Quyết định số 11/VBHN-NHNN
ngày 21/5/2014, ban hành quy chế thanh
toán trong mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ
tại khu vực biên giới và khu kinh tế cửa khẩu
giữa Việt Nam với Trung Quốc. Với quy định này
th́ pháp luật Việt Nam đă có quy định cụ thể,
chỉ cho phép lưu thông Nhân dân tệ một cách hạn
chế trên lănh thổ Việt Nam”.
Phản ứng của giới trí thức và báo chí:
Nhà báo Đào Tuấn,
thẳng thắn viết trên báo Lao Động là cần một câu
dứt khoát: “Đề nghị giao dịch chánh thức bằng
Nhân Dân Tệ phải được hồi đáp ngay bằng cái
lắc đầu dứt khoát, nếu chúng ta c̣n tôn
trọng đồng bạc Việt Nam, một sự tôn trọng cần
thiết như tôn trọng độc lập quốc gia”.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh,
khi trả lời phỏng vấn của báo Một Thế Giới, đă
khẳng định: “Lời
đề nghị thanh toán trực tiếp bằng Nhân Dân Tệ
của Trung Quốc là vi phạm chủ quyền của Việt
Nam”.
Với lư lẽ của phía Trung Quốc nói rằng, trong
năm 2013 giao dịch bằng Nhân Dân Tệ tại vùng
biên giới Việt–Trung lên đến 15 tỷ mỹ kim là
bằng con đường không chính ngạch, ông Doanh nêu
câu hỏi: "Ngân Hàng Nhà Nước và các tỉnh biên
giới, cần phải có một câu trả lời rơ ràng là tại
sao lại có thể có giao dịch lên đến 15 tỷ mỹ kim
bằng đồng Nhân Dân Tệ ở biên giới được? Ai sẽ
phải chịu trách nhiệm về việc này?
“Phải kiểm soát rất rơ ràng chứ không thể nào
dùng đồng Nhân
Dân
Tệ
lưu hành ở Việt Nam như một đồng tiền thứ hai,
không một nước nào có thể cho phép như vậy. Đây
chính
là
vi phạm chủ quyền lănh thổ và chẳng khác ǵ việc
cho phép đồng Nhân
Dân
Tệ
thao túng đồng tiền của Việt Nam”
Tiến sĩ Cao Sĩ Kiêm,
nguyên Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước: “Việc
sử dụng đồng Nhân dân tệ trong giao dịch thanh
toán Việt Nam - Trung Quốc cần được xem xét dưới
nhiều góc độ, một là độ tin cậy và sức mạnh của
đồng Nhân dân tệ, và hai là sức đề kháng của
kinh tế Việt Nam. Bao giờ đồng Nhân dân tệ có
thể chuyển đổi được ra vàng hay mỹ kim, hay đồng
EURO, lại là chuyện khác. Nhưng trong bối cảnh
hiện nay, Nhân dân tệ chưa làm được điều đó nên
chúng ta sẽ phải chờ thêm”.
Tiến
sĩ
Phạm Chí Dũng,
Chủ
Tịch
Hội
Nhà
Báo
độc lập,
cho rằng:
“Đây
không phải là vấn đề mới, v́ Ngân
Hàng
Nhà
Nước
đă có quy định rơ ràng.
Nhưng phải thận
trọng, v́ đây có thể là
chủ trương trong chính sách gặm nhấm
Việt
Nam
của
Trung Quốc.
Bà
Phạm Chi Lan:
“Nếu
cho thanh toán trực tiếp bằng Nhân
Dân
Tệ
là hành động xâm phạm chủ quyền của Việt
Nam,
bởi nó tương tự như việc treo cờ, chỉ có thể là
cờ của nước ta chứ sao có thể là cờ của nước
khác được”?
Đến nay, lănh đạo Việt Cộng chưa một ai lên
tiếng, trong khi giới trí thức và nhà báo rất lo
ngại v́ cho rằng Trung Cộng t́m cách đưa đồng
nhân dân tệ vào lũng đoạn thị trường Việt Nam,
biến đồng nhân dân tệ thành đồng tiền song hành
với đồng bạc Việt Nam, đây là điều không thể
chấp nhận được, v́ vi phạm chủ quyền Việt Nam.
Nhưng then chốt của vấn đề là âm mưu của Trung
Cộng, mà theo nghi ngờ của Tiến sĩ Phạm Chí Dũng,
th́ đề nghị sử dụng “nhân dân tệ” tại Việt Nam
rất có thể là trong chính sách gậm nhấm của
Trung Cộng.
Tôi căn cứ vào nội dung Biên Bản Thành Đô ngày
4/9/1990, và
nhận ra lănh đạo Việt Cộng đă có những hành động
sau đây:
Tại Bắc Kinh ngày 30/12/1999, đă kư Hiệp
Ước biên giới trên bộ, giao cho Trung Cộng
789 cây số vuông.
Cũng tại Bắc Kinh ngày 25/12/2000, lại kư
Hiệp Ước biên giới trên vịnh Bắc Việt, giao cho
Trung Cộng 11.362 cây số vuông.
Ngày 1/8/2012,
trong khi hạm đội tàu cá của Trung Cộng
lên đến 28.000 chiếc dàn trải khắp vùng
biển từ hải phận Bà Rịa Vũng Tàu đến quần đảo
Trường Sa, vậy mà lực lượng Hải Quân với Không
Quân Việt Nam nằm im tại các căn cứ, v́ không có
lệnh của lănh đạo.
Ngày 31/8/2011,
theo Giáo sư Vũ Cao Đàm th́ đế quốc Trung
Cộng đă đóng chốt ở một vùng vô cùng hiểm yếu
của bán đảo Đông Dương, rồi
những hợp đồng thuê 300.000 mẫu tây đất
rừng đầu nguồn, cộng với khoảng
1.300.000 người lao động Trung Cộng, đang
mai phục trên toàn cơi Việt Nam.
Với 2 sự kiện đầu, cho thấy lănh đạo Việt
Cộng giao cho Trung Cộng phần đất biên giới với
những vị trí chiên lược trên điểm cao khống chế
dọc biên giới Việt-Trung, và phần biển trên vịnh
Bắc Việt lấn sâu vào phần biển chiến lược của
Việt Nam. Sự kiện thứ 3 cho thấy lănh đạo
Việt Cộng bằng “hành động im lặng” cứ xem như
không nghe không thấy không biết 28.000 tàu cá
Trung Cộng răi khắp mặt Biển Đông, để
chứng tỏ “hành động đúng hướng” đối với Trung
Cộng. Và sự kiện thứ 4, lại thêm một
“hành động đúng hướng” nữa, giúp Trung Cộng răi
quân từ Quảng Ninh dọc theo duyên hải mà Vũng
Áng và Hải Vân Lăng Cô là vị trí chiến lược, và
dọc theo chân Trường Sơn có vị trí chiến lược
trên nóc nhà Tây Nguyên, đến tận Mũi Cà Mau dưới
dạng công nhân tại các công trường mà các công
ty Trung Cộng trúng thầu theo “qui tŕnh định
sẳn”.
Tôi gọi đó là từng bước thực hiện Biên
Bản Thành Đô. Chữ
“từng bước” không phải do tôi nghĩ ra đâu nhé,
mà là tôi lấy ư từ đoạn cuối sau đây trong Biên
Bản Thành Đô, là: “... Phía Trung Quốc đă
đồng ư và chấp nhận đề nghị nói trên, cho Việt
Nam trong thời hạn 30 năm (1990-2020) để đảng
cộng sản Việt Nam giải quyết
các bước tiến hành cần thiết cho việc
gia nhập đại gia đ́nh các dân tộc Trung Quốc”.
Và liệu, ông Du Chí Thanh c̣n liên quan ǵ đến
sự chuẩn bị nhân sự trong đại hội đảng cộng sản
thứ 12 vào năm 2016?
Kết
luận.
Các Anh suy nghĩ ǵ th́ tùy Các Anh,
nhưng Các Anh đừng quên là trên thế giới,
chưa bao giờ có sự kiện người dân từ các
nước Dân Chủ Tự Do chạy sang các nước cộng sản
độc tài xin tị nạn chính trị, chỉ có người dân
từ các nước cộng sản độc tài ào ạt chạy sang các
nước Dân Chủ Tự Do xin tị nạn chính trị.
Riêng tại Việt Nam:
Thứ nhất.
Trong ṿng 300 ngày từ sau Hiệp Định Đ́nh Chiến
20/7/1954 có hiệu lực, đă có 868.672 người từ
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa chạy vào nước
Việt Nam Cộng Ḥa dân chủ tự do tị nạn. Trong
các năm 1954-1956, có thêm 102.861 người trốn
khỏi phần đất cộng sản vào phần đất tự do chúng
tôi tị nạn. Cộng chung là 971.533 người.
Đó là cuộc bỏ phiếu bằng chân lần 1 “bầu chọn
Dân Chủ Tự Do”.
Thứ hai.
Trong ṿng 20 năm kể từ ngày 30/4/1975, đă có
839.200 người vượt biên vượt biển đến tị nạn
chính trị tại 91 quốc gia tự do, và Liên
Hiệp Quốc ước lượng khoảng 400.000 đến
500.000 người đă chết mất xác trên biển và
trong rừng, trên đường chạy trốn cộng sản! Lại
cuộc bỏ phiếu bằng chân lần 2 “bầu Tự Do”.
chọn Dân Chủ.
Các Anh hăy nh́n lên vách để thấy tấm lịch đang
là năm 2015, như vậy chỉ c̣n 5 năm nữa là
đến năm 2020 rồi! Nếu Các Anh vẫn vô cảm mà đứng
nh́n th́ cầm chắc Các Anh sẽ nhận thẻ “Chứng
Minh Nhân Dân” của Trung Cộng bằng tiếng Tàu đó!
Texas, tháng 2 năm 2015
****40*****
HÁT CHO VIỆT NAM : Sáng
tác và trình bày TỪ YÊN